Articles by: palestina

Tình yêu hy hiến của Chúa Giêsu Kitô đem lại ơn cứu độ cho con người

“Chúng ta sẽ được kể là công chính, vì tin vào Đấng đã làm cho Đức Giêsu, Chúa chúng ta, sống lại từ cõi chết; Đức Giêsu chính là Đấng đã bị trao nộp vì tội lỗi chúng ta và đã được Thiên Chúa làm cho sống lại để chúng ta được nên công chính”  (Rm 4,24-25).

“Nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người… Nếu tội lỗi đã thống trị bằng cách làm cho người ta phải chết, thì ân sủng cũng thống trị bằng cách làm cho người ta nên công chính để được sống đơì đời, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” Rm 5,15.21)

“Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Nguời đã sống lại. Chúng ta biết rằng con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô,  như vậy con người do tội lỗi thống trị đã bị hủy diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa… Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ sống lại với Người. Đó là niềm tin của chúng ta”  (Rm 6,5-6.8)

“Đức Kitô đã đến làm Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai. Để vào cung thánh, Người đã đi qua một cái lều lớn hơn và hoàn hảo hơn, không do bàn tay con người làm nên, nghĩa là không thuộc về thế giới thọ tạo này. Người đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình. Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta… Nhờ Thánh Thần hằng thúc đẩy, Đức Kitô đã tự hiến như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiến Chúa. Màu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống” (Dt 9,11-14).

 

by Tháng Tư 17, 2014 Comments are Disabled Đèn soi lối, Tâm Linh
Các bản dịch Thánh Kinh Tân Ước tiếng Latinh và không Latinh

Các bản dịch Thánh Kinh Tân Ước tiếng Latinh và không Latinh

CÁC BẢN DỊCH THÁNH KINH TÂN ƯỚC TIẾNG KHÔNG LATINH

VÀ CÁC BẢN DỊCH TIẾNG LATINH

      Thánh Kinh Tân Ước đã được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau. Bên cạnh các bản dịch tiếng Hy lạp như chúng ta đã tìm hiểu còn có các bản dịch tiếng Latinh và tiếng không Latinh.

I. Các bản dịch Thánh Kinh Tân Ước không Latinh

      1. Bản dịch tiếng Siriac

      Trong số các bản dịch cổ của Thánh Kinh Tân Ước có các bản dịch tiếng Siriac. Đó là bản dịch ”Diatessaron” của học giả Taziano. Từ ”Diatessaron” bắt nguồn từ kiểu gọi Hy lạp ”tò dia tessarôn euanghélion” có nghĩa là ”Tin Mừng từ 4 Tin Mừng”.

           1) Bản ”Diatessaron”

      Đây là bản văn hòa hợp 4 sách Phúc Âm. Học giả Taziano, qua đời năm 180 sau công nguyên, biên chép 4 Phúc Âm tiếng Hy lạp rồi dịch ra tiếng Siriac. Bản dịch ”Diatessaron” rất thông dụng, nhưng nguyên bản Siriac đã bị mất. Chỉ còn lại vài bản dịch và nhiều lời trích. Năm 1933 người ta đã tìm thấy một mảnh văn bản Hy lạp viết trên da thuộc vào khoảng năm 220 sau công nguyên, tại Dura Europos trên sông Euphrate. Vì nó cổ xưa như thế, nên giới học giả rất chú ý đến bản dịch Diatessaron trong việc phê bình bản văn Tân Ước.

      Vào thế kỷ thứ ba người ta đã dịch 4 Phúc Âm riêng rẽ. Hiện bản dịch này còn được giữ trong Codice Curetoniano và Codice Sinaitico Siriaco, được trích dẫn trong phần phê bình của Thánh Kinh Tân Ước.

           2) Vào thế kỷ thứ V có thêm bản văn Pescitta Tân Ước bao gồm mọi tác phẩm Tân Ước, trừ 5 tác phẩm Deuterocanonici, tức thư thứ II thánh Phêrô, thư thứ II và thứ III thánh Gioan, thư thánh Giuđa và sách Khải Huyền.

          3) Vào đầu thế kỷ thứ VI Đức Giám Mục Filosseno cho soạm một bản dịch tiếng Siriac khác bao gồm toàn Kinh Thánh Tân Ước, kể cả các tác phẩm Deuterocanonici. Bản văn này không còn được bao nhiêu, nhưng có một bản tái duyệt do Ông Tommaso Arclense hay Tommaso thành Eraclea biên soạn vào thế kỷ thứ VII. Vì thế người ta gọi bản dịch Tân Ước tiếng Siriac này là bản Filosseniana hay Arclense.

          4) Vào khoảng năm 600 sau công nguyên có thêm bản dịch ”Siriac Palestine”, là thứ tiếng Aramây vùng Galilea. Từ bản dịch này chỉ còn lại các phần dùng trong phụng vụ.

      2. Bản dịch tiếng Copte

      Ngoài các bản dịch tiếng Siriac kể trên Thánh Kinh Tân Ước cũng được dịch ra tiếng Copte, là thổ ngữ Ai Cập. Sau đây là các bản dịch chính:

          1) Bản ”Copte Bohairica”, là loại thổ ngữ thông dụng tại miền bắc Ai Cập.

         2) Bản ”Copte Sahidica”, là thổ ngữ thông dụng tại miền nam Ai Cập. Gần với bản dịch Copte Sahidica còn có các bản dịch: “Achmimica”, ”Subachmimica” và ”Fayumica”.

      Các bản dịch Copte của Thánh Kinh Tân Ước khá cổ xưa, ít nhất là một phần thuộc thế kỷ thứ II và chúng có tầm quan trọng rất lớn đối với ngành phê bình văn bản Tân Ước.

      3. Bản dịch tiếng Armeni

      Cũng có bản dịch Thánh Kinh Tân Ước tiếng Armeni, thuộc thế kỷ thứ V. Nó chứa đựng vài kiểu đọc văn bản đặc biệt và gần với bản văn Hy lạp Koridethi.

      4. Bản dịch tiếng Giorgia

      Sau cùng vào khoảng năm 500 có thêm bản dịch tiếng Giorgia, có lẽ dịch từ bản văn Armeni, vì nó rất giống bản văn tiếng Armeni. Sau đó nó được sửa lại dựa trên các thủ bản Hy lạp.

II. Các bản dịch Tân Ước tiếng Latinh

      Trên đây là các bản dịch Kinh Thánh Tân Ước không Latinh. Bây giờ chúng ta tìm hiểu các bản dịch Thánh Kinh tiếng Latinh. Trước hết là bản ”Vetus Latina”.

      1. Bản ”Vetus Latina”

     ”Vetus Latina” là một kiểu gọi quy ước. Nó ám chỉ tất cả các bản dịch Kinh Thánh Latinh cổ xưa, có trước bản Vulgata của thánh Giêrolamo. Phần Cựu Ước của bản Vetus Latina được dịch từ một bản văn Bẩy Mươi, và phần Tân Ước được dịch từ một bản văn Hy lạp tái duyệt thuộc nhóm thủ bản D.

      Tình trạng hiện nay của bản Vetus Latina không cho phép chúng ta biết một cách chắc chắn đã có bao nhiêu bản dịch Kinh Thánh tiếng Latinh trước thánh Giêrolamo. Việc nghiên cứu khá phức tạp, vì đã có nhiều trao đổi lẫn lộn giữa các bản dịch khác nhau, cả giữa các bản tái duyệt của cùng một bản văn. Ngoài ra, các bản dịch hay bản tái duyệt đã được sửa chữa nhiều lần.

       2. Hai bản dịch La tinh chính: bản Phi châu và bản Âu châu

       Như giả thiết tìm hiểu chúng ta có thể nói đến hai bản dịch chính, vì các bản dịch khác có tính cách phụ thuộc hay phiến diện: một bản dịch phát xuất từ Phi châu, bản dịch thứ hai có nguồn gốc Âu châu, có thể là Roma hay Lyon. Lý do chính khiến cho giới nghiên cứu giả thiết hai bản dịch La tinh này là các khác biệt từ ngữ và kiểu hành văn tìm thấy trong các lời trích Kinh Thánh Latinh của các tác gỉa Phi châu như thánh Cipriano và các lời trích của các tác giả Âu châu, đặc biệt là các tác gỉa gốc Italia như Novaziano. Bằng chứng là có các thủ bản Codici Vetus latina phần Tân Ước có các bản văn giống các lời trích của các tác giả Italia và Âu châu; trong khi phần Cựu Ước có ít chứng tích hơn và không đầy đủ. Dầu sao đi nữa, cả việc phân biệt hai bản văn Latinh này ngay trong các sách Kinh Thánh có chứng tích cũng không đáng kể cho lắm. Có lẽ bản dịch Latinh Âu châu được soạn thảo theo bản dịch Latinh Phi châu.

      Ngoài ra cũng còn phải giả thiết rằng đã có nhiều dịch giả, xét vì có sự khác biệt giữa từ vựng và kiểu hành văn giữa các sách và các nhóm sách thánh. Nhiều tác phẩm Kinh Thánh có nhiều dịch giả khác nhau, trái lại cũng có khi một dịch giả dịch nhiều tác phẩm khác nhau. Từ nhiều bản dịch từng phần chắp lại với nhau người ta đi đến chỗ có toàn văn bản. Hai bản văn Latinh chính là bản Phi châu và bản Âu châu. Xem ra đã không có bản dịch trọn vẹn toàn bộ Thánh Kinh nào bằng tiếng Latinh. Các phần dịch, dài ngắn tùy theo, cũng đã bị sửa chữa rất nhiều vì nhiều lý do: như viết lầm, ước muốn loại bỏ các kiểu nói sai thật, hay tuy đúng nhưng bị dịch giả coi là sai, khuynh hướng sửa đi chữa lại một bản văn Latinh dựa trên bản văn Hy lạp, tìm hòa đồng các kiểu dịch khác nhau vv… Điều này giúp chúng ta hiểu tại sao vào khoảng năm 400, thánh Agostino và thánh Giêrolamo than phiền vì có qúa nhiều khác biệt giữa các bản dịch Kinh Thánh Latinh.

      Bản Vetus Latina, ít nhất là một phần, đã được dịch hồi thế kỷ thứ II. Thật thế, Kitô giáo đã được phổ biến và gặt hái nhiều thành công giữa nhiều dân tộc nói tiếng Latinh. Mặc dù trong các thành phố lớn giới ăn học cũng nói và hiểu tiếng Hy lạp, nhưng dân chúng chỉ hiểu và nói tiếng Latinh. Sự kiện này khiến cho việc dịch Thánh Kinh ra tiếng Latinh là điều cần thiết.

      Tuy nhiên, chúng ta cũng có các lý chứng trực tiếp cho biết bản Vetus Latina đã được dịch hồi thế kỷ thứ II. Vào tháng 7 năm 180 tại Scillium bên Phi châu có xảy ra vụ xử án các Kitô hữu. Quan lãnh sự hỏi các tín hữu: ”Trong hộp có những gì vậy?”. Một tín hữu trả lời ”Các sách và thư của Phaolô người công chính”. Dựa trên chứng từ đó chúng ta biết được là các Kitô hữu đem theo mình ít nhất là một phần các tác phẩm Kinh Thánh. Và bởi vì các vị tử đạo tại Scillium là những người dân thường đến từ một làng nói tiếng Latinh, nên có thể suy luận rằng ngay từ thời đó họ đã có một bản dịch Kinh Thánh tiếng Latinh.

      Cũng tại vùng lãnh sự Phi châu vào khoảng năm 200, trong các bút tích của mình Giáo Phụ Tertulliano có đề cập tới các bản dịch hay bản ”giải thích” Thánh Kinh. Cũng tại đây vào khoảng năm 250 thánh Cipriano đã nhiều lần trích dẫn Thánh Kinh La tinh và một cách luôn luôn đồng nhất. Từ đó có thể biết rằng vào năm 250 đã có bản dịch Thánh Kinh tiếng La tinh được sử dụng một cách thông thường. Như thế nguồn gốc đầu tiên của bản dịch đó phải có từ trước nữa, vào khoảng năm 200.

      Tại Roma vào năm 250 tác giả Novaziano cũng trích một bản văn Kinh Thánh La tinh, khác với bản văn mà thánh Cipriano sử dụng. Như thế, chúng ta thấy ngay tại Italia cũng đã có một bản dịch La tinh thứ hai được sử dụng, hay ít nhất đó là một bản văn La tinh tái duyệt bản dịch được phổ biến bên Phi châu.

      Bản Vetus Latina quan trọng đối với việc phê bình văn bản. Nó giúp dựng lại bản văn Hy Lạp Tân Ước dễ dàng hơn các bản dịch khác, vì nó dịch rất sát bản văn Hy lạp. Ngoài ra bản Vetus Latina còn rất hữu ích đối với việc phê bình bản văn Thánh Kinh Cựu Ước Hy lạp, vì nó được dịch từ một bản văn Bẩy Mươi khá tốt. Thế rồi, bản Vetus Latina đã được thánh Giêrolamo dùng để soạn bản dịch Latinh Vulgata. Tất cả những sách Deuterocanonici cựu ước mà thánh Giêrolamo đã không dịch, tức các sách Khôn Ngoan, Huấn Ca, Baruc, Macabây I-II, đã được lấy lại từ bản Vetus Latina. Sách Thánh vịnh của bản văn Vulgata cũng lấy lại từ bản Vetus Latina. Thánh Giêrolamo đã tái duyệt nó, chứ không thay thế bằng bản dịch riêng. Cũng nên ghi nhận rằng bản dịch Tân Ước Latinh trong cuốn Vulgata cũng là bản dịch Vetus Latina được thánh Giêrolamo tái duyệt. Ngoài ra cũng không được quên rằng phụng vụ, các Giáo Phụ và các tác giả Latinh đã sử dụng rộng rãi bản Vetus Latina, cả sau này nữa, vì nó đã chỉ được thay thế từ từ bằng bản Vulgata.

      3. Các thủ bản Tân Ước tiếng Latinh

      Bản Vetus Latina được duy trì trong một số thủ bản Codici không đầy đủ và trong một số mảnh văn bản, bị ảnh hưởng bởi bản Vulgata. Bản văn Tân Ước được đánh dấu với mẫu tự Latinh viết thường. Đặc biệt quan trọng có:

            – Thủ bản Vodice k (hay Codice Bobbio), thuộc thế kỷ thứ V-VI, gồm một phần Phúc âm thánh Mátthêu và Máccô được lưu giữ tại Torino, trung bắc Italia.

            – Thủ bản Codice a (hay Codice Vercelli) thuộc thế kỷ IV-V, có lẽ là thủ bản các Phúc Âm Latinh cổ xưa nhất. Nó thuộc bản tái duyệt Âu châu.

           – Ngoài ra còn các có các thủ bản quan trọng khác như Codice e (Palatino) thuộc thế kỷ thứ V; Codice b (Verona) thuộc thế kỷ thứ V; Codice f (Brescia) thuộc thế kỷ thứ VI.

      Vì có ít tài liệu trực tiếp nên các lời trích của các Giáo Phụ Latinh như thánh Cirpiano, thánh Ambrogio, Giáo Phụ Ambrosiastro vv… cũng rất quan trọng đối với nghành phê bình văn bản.

      Các tu sĩ Biển Đức thuộc tu viện Beuren bên Đức đã tái duyệt bản Vetus Latina: ”Vetus Latina. Die Reste der altlatainishen Bibel nach Petrus Sabatier neu gesammelt und herausgegeben von der Erzabteil Beuron”. Để thực hiện công tác này các tu sĩ đã thu tập tất cả các thủ bản Codici, các Lezionari, tức sách bài đọc gồm các bản văn dùng cho phụng vụ, và mọi lời trích của các tác giả Kitô dọc lên cho tới thời hoàng đế Carlo Cả, tức khoảng năm 800. Trước đó đã có học giả Pietro Sabatier, là người đã cho ấn hành tất cả các văn bản và lời trích Kinh Thánh Vetus Latina, được biết cho tới thời đó. Bản văn tái duyệt cũng bao gồm danh mục giúp nghiên cứu sự phát triển tư tưởng thần học, sự hình thành của từ vựng giáo hội học và sự hình thành của bản Vulgata. Nó cũng quan trọng đối với việc nghiên cứu tiếng Latinh hậu cổ điển và tân thời.

       Linh Mục Giuse Hoàng Minh Thắng

 

by Tháng Sáu 1, 2013 Comments are Disabled Thánh Kinh Tân Ước
Tóm tắt lịch sử Israel – Lịch sử biên soạn Thánh Kinh

Tóm tắt lịch sử Israel – Lịch sử biên soạn Thánh Kinh

LỊCH SỬ BIÊN SOẠN THÁNH KINH CỰU ƯỚC, CÁC VĂN THỂ

      Thánh Kinh là cuốn sách kể lại cuộc tình của Thiên Chúa với dân Israel. Con đường tình ấy đã có lịch sử biên soạn dài 1.000 năm cho Thánh Kinh Cựu Ước và 100 năm cho Thánh Kinh Tân Ước.

I. TÓM TẮT LỊCH SỬ ISRAEL

       Israel là một trong các dân tộc sống trong vùng mà giới học giả kinh thánh gọi là ”Nửa vành trăng phì nhiêu”, trải dài từ Ai Cập sang tới Mêdôpôtamia, tức vùng Lưỡng Hà là Iran Irak ngày nay. Trước thời các tổ phụ mấy ngàn năm, đã có nhiều nền văn minh phát triển trong vùng này. Ai Cập là nền văn minh đã đạt tột đỉnh sự cường thịnh của nó vào năm 3.500 trước công nguyên. Ngoài ra còn có nền văn minh Híttít, Sumero-Accadic, Babilonia, và nền văn minh Minoica trên đảo Creta

 1. Thời các Tổ phụ (1850-1500)

      Lịch sử dân Israel bắt đầu với ơn gọi của tổ phụ Abraham vào khoảng năm 1850 trước công nguyên. Từ thành Ur trong vùng Mêdôpôtamia, ông Abraham đã lắng nghe tiếng Thiên Chúa mời gọi từ bỏ nếp sống định cư, để lang thang sống đời du mục, và đi đến miền đất Thiên Chúa sẽ chỉ cho ông là đất Canaan. Abraham đến Haran, đi dọc đất Canaan và cùng các đoàn vật của mình dừng chân nay đây mai đó, tại những nơi có đồng cỏ, có nước và chỗ dựng lều, đặc biệt tại Hebron, mạn bắc sa mạc Negheb.

       Thiên Chúa hứa ban cho Abraham dòng dõi đông đúc (St 15; 17). Nhưng vì đợi mãi mà không thấy có con, trong khi hai vợ chồng ngày càng gìa, bà Sara để cho tổ phụ Abraham ăn nằm với nữ tỳ là Haga để có người nối dõi tông đường (St 16). Ismael là đứa con Haga sinh cho bà Sara. Sau đó khi có con riêng là Igiaác, bà Sara sợ Ismael giành quyền của Igiaác nên yêu cầu Abraham đuổi Haga và Ismael đi (St 21). Ismael sẽ là tổ phụ các dân tộc A Rập.

      Igiaác sinh ra Edau và Giacóp. Nhờ mẹ là bà Rebecca giúp, Giacóp lừa được Edau để cướp chức trưởng nam của anh và được phúc lành của cha, nhưng ông phải chạy trốn về Haran để khỏi bị Edau báo thù. Tại Haran Giacóp làm việc cho ông Laban. Ông Laban có hai con gái là Lea và Rakhel. Giacóp yêu Rakhel là cô em xinh đẹp hơn chị, và bằng lòng làm rể 7 năm, chăm chỉ làm việc cho ông Laban để lấy Rakhel. Nhưng ông Laban đánh lừa Giacóp, thay vì gả Rakhel thì ông gả Lea. Sáng ra Giacóp mới khám phá ra không phải Rakhel mà là Lea. Giacóp khiếu nại, nhưng ông Laban cho biết tập tục không gả cô em trước cô chị. Vì thế để lấy được người mình yêu là Rakhel, ông phải làm rể thêm 7 năm nữa… Sau khi bà Rakhel sinh Giuse cho ông, thì Giacóp xin ông Laban cho ông hồi hương. Ông Laban muốn trả công cho Giacóp vì những năm phục vụ, khiến cho đàn vật của ông gia tăng rất nhiều. Giacóp đã dùng mưu để gầy cho mình các đoàn chiên dê khỏe mạnh nhất, trong khi các con yếu là của ông Laban. Ông Laban đổi thái độ đối với Giacóp. Tiếng Thiên Chúa bảo ông Giacóp trở về quê cha đất tổ. Thế là lợi dụng lúc ông Laban bận đi xén lông chiên, Giacóp cùng các vợ con trốn đi. Được tin báo, ông Laban cùng các con trai và đầy tở đuổi theo kịp và trách móc Giacóp xử tệ với ông. Giacóp nổi nóng trách móc bố vợ: ” Suốt 20 năm con đã ở với cha, chiên cái dê cái của cha của cha không hề sẩy thai, con không hề ăn con chiên đực nào trong đàn vật của cha. Con vật bị cắn xé con không đưa về cho cha, chính con chịu đền; con bị mất trộm vào ban ngày hay ban đêm cha đều đòi con phải trả. Ban ngày con bị nắng thiêu, ban đêm con bị lạnh buốt, không sao chợp mắt ngủ được. Con ở nhà cha đã được 20 năm, con đã phục vụ cha được 14 năm để được hai cô con gái của cha, 6 năm để được chiên của cha, cha đã đổi công xá của con 10 lần. Giả như Thiên Chúa của cha con, là Thiên Chúa ông Abraham thờ và là Đấng ông Igiaác khiếp sợ, đã không ở với con, thì bây giờ hẳn cha đã để con về tay không. Thiên Chúa đã thấy cảnh khổ cực và công lao vất vả của con, và đêm qua Người đã phán xử” (St 31,38-42).

      Ông Laban và Giacóp ký kết giao ước với nhau. Sáng hôm sau, ông Laban dậy sớm, hôn các con các cháu và chúc phúc cho chúng, rồi lên đường về nhà. Ông Giacóp sai các sứ giả đi trước gặp Edau để dọ ý. Khi biết Edau cùng 400 người cũng đang tiến đến gặp ông, Giacóp liền chia người và đoàn vật của ông làm hai trại. Rồi ông lấy một phần của cải tay ông đã làm ra để làm tặng phẩm biếu ông Edau: 200 dê cái và 20 dê đực, 200 chiên cái và 20 chiên đực, 30 lạc đà cái đang cho con bú và con của chúng, 40 bò cái và 10 bò đực, 20 lừa cái và 20 lừa con. Ông giao từng đàn vật riêng rẽ cho các đầy tớ và dặn họ nói với Edau rằng đây là tặng phẩm ông ấy gửi biếu ngài Edau.

      Giacóp cũng chia đoàn người thành 3 nhóm: các nữ tỳ với con của họ đi đầu, tiếp đến là Lea và các con của bà, sau cùng la Rakhel và Giuse. Giacóp vượt lên phía trước sụp xuống đất lậy 7 lần trước khi đến gần anh mình. Ông Edau chạy lại đón em, ôm chầm lấy, bá cổ mà hôn, rồi cả hai cùng khóc. Giacóp giới thiệu mọi người với anh, và năm nỉ anh nhận qùa biếu. Edau muốn hộ tống Giacóp nhưng Giacóp không muốn, rồi hai hên người chia tay…

      Giacóp có 12 người con là nguồn gốc của 12 chi tộc Israel. Vì ghen ghét với Giuse các anh của ông ban đầu muốn giết ông, nhưng sau đó họ bán ông cho các lái buôn người Madian (St 37) Giuse bị dẫn sang Ai Cập và bị bán làm đầy tớ cho quan thái giám của Pharaông Ai Cập là Potipha. Vợ quan thấy Giuse đẹp trai nên say mê ông và quyến rũ ông, nhưng Giuse nhất mực từ chối, vì không muốn phạm tội mất lòng Thiên Chúa và phản bội lòng tin tưởng của quan Potipha. Khi thấy không tài nào quyến rũ được Giuse, bà vợ quan vu khống cho ông tội sàm sỡ với bà. Quan tin lời vợ bỏ tù Giuse. Nhưng vì luôn luôn có Thiên Chúa ở cùng nên trong tù ông Giuse lại được lòng quan cai ngục. Quan đặt ông cai quản các người tù. Trong số các tù nhân có cả quan chước tửu và quan chánh ngự thiện của Pharaông. Hai ông nằm mơ và được Giuse giải thích các giấc mộng: quan ngự thiện bị xử tử, quan chước tửu được phục chức. Nhưng ông quên lời Giuse xin ông bầu cử Pharaông trả tự do cho Giuse. Mãi cho đến một hôm Pharaông nằm mơ thấy ông đứng bên bờ sông Nil và trông thấy 7 con bò cái hình dáng đẹp đẽ béo tốt đi lên, rồi 7 con bò xấu xí đa thịt gầy còm đi lên đứng bên cạnh, và chúng ăn thịt 7 con bò hình dáng đẹp đẽ và béo tốt.

      Rồi Pharaông lại chiêm bao lần thứ hai: vua thấy 7 bông lúa đâm lên trên cùng một cọng, mẩy và tốt. Rồi có 7 bông lúa lép và nám cháy vì gió đông mọc lên sau chúng. Bẩy bông lúa lép nuốt chửng 7 bông lúa mẩy và chắc. Sáng ra Pharanog cho vời tất cả các phù thủy và hiền sĩ Ai Cập đến, rồi kể cho họ nghe giấc mộng. Nhưng không ai giải thích được, lúc ấy quan chước tửu mới sực nhớ tới Giuse và kể lại tài giải thích các giấc mộng của ông. Pharaông cho vời Giuse đến và ông đã giải thích các giấc mộng của vua: Bẩy con bò cái béo tốt là 7 năm, bẩy bông lúa tốt là 7 năm. Bẩy con bò cái ốm nhom xấu xí là 7 năm, bẩy bông lúa còi và cháy nám vì gió đông là 7 năm. Sắp tới là 7 năm rất sung túc trong toàn cõi Ai Cập. Tiếp sau những năm đó là 7 năm đói kém, nạn đói rất trầm trọng sẽ làm cho xứ kiệt quệ. Ông Giuse xin vua xem có người nào thông minh và khôn ngoan, thì đặt người ấy cai quản xứ Ai Cập, rồi đặt các quản đốc lo việc trong xứ, đánh thuế một phần năm trên thóc lúa trong 7 năm sung túc. Rồi thu tích mọi lương thực của 7 năm được mùa, chất chứa lúa mì trong thành, để Pharông toàn quyền xử dụng trong 7 năm đói kém.

      Thế là Pharông đặt ông Giuse làm Tể tướng cai quản toàn nước Ai Cập. Năm ấy ông Giuse được 30 tuổi. Trong 7 năm đói kém các con của ông Giacóp cũng phải sang Ai Cập mua lúa mì. Giuse nhận ra các anh, nhưng họ không nhận ra ông. Ông giả vờ không biết họ và nói chuyện với họ qua người thông ngôn. Sau cùng không dằn lòng được nữa ộng tỏ mình ra cho các anh. Giuse gửi qùa cáp về cho cha và gia đình ông Giacóp sang sống bên Ai Cập, được Pharông qúy trọng. Đó là vào khoảng thế kỷ XVI trước công nguyên, khi Ai Cạp do người Hyksos cai trị (1750-1550). Và dân Israel đã sống 400 năm bên Ai Cập.

 2. Thời xuất hành (1300-1250)

      Dân Israel sống 400 năm bên Ai Cập và sinh sôi nảy nở đông đúc khiến cho Pharaông Seti I lo sợ nên ra lệnh sát hại các con trai người Do thái. Khi không giấu được con nữa, bà mẹ ông Môshê bỏ con vào trong một cái thúng rồi bỏ trôi trên sông Nil. Thúng giạt vào nơi công chúa Ai Cập thường xuống tắm sông, và Môshê được công chúa cứu sống, nhận làm con, rồi giao cho chính mẹ của ông đem về nuôi hộ. Sau đó bà đem Môshê lại cho công chúa để công chúa giáo dục ông. Môshê trở thành hoàng tử trong triều đình Ai Cập.

      Hồi đó Pharaông Ramses II bắt dân Do thái làm lụng vất vả để xây thành phố Pi Ramses. Một hôm Môshê đi xem người do thái làm việc. Khi thấy đốc công Ai Cập đánh đập dân mình tàn bạo, ông giết tên cai Ai Cập rồi vùi xác vào cát. Nhưng câu chuyện vỡ lở tới tai Pharaông Ramses II và Pharaông tìm cách giết Moshê. Môshê bỏ trốn vào trong sa mạc và tới sống tại Madian. Tại đây, ông trở thành con rể của tư tế Giêtrô và chăn đoàn vật cho ông. Một hôm khi ông tới núi Horeb trong bán đảo Sinai, Thiên Chúa đã kêu gọi ông lãnh đạo cuộc giải phóng dân Israel khỏi kiếp sống nô lệ bên Ai Cập (Xh 3-15).

      Trong cuộc hành trình qua sa mạc Sinai, dân Israel đói khát kêu ca lẩm bẩm than trách Thiên Chúa. Thiên Chúa đã cho họ nước uống, bánh và thịt để ăn. Nhưng tại Rơphiđim, vì không có nước uống họ lại gây sự với ông Môshê và muốn ném đá ông. Thiên Chúa đã truyền cho ông cầm gậy đập vào tảng đá để vọt nước ra cho dân uống. Nhưng thay vì đập một lần là đủ, ông đã đập hai lần. Vì thế ông và anh ông là thầy cả Aharon bị phạt không được vinh dự dẫn dân Israel vào Đất Hứa (Ds 20,1-13).

      Khi tới gần Đất Hứa, ông Môshê sai ông Giôsuê và một số người khác vào thám thính đất Caaan. Nhưng khi nghe một vài người trong đội thám thính xuyên tạc tường thuật và miêu tả các dân sống trong vùng, con cái Israel lo sợ không muốn vào Đất Hứa. Họ nổi loạn đòi ném đá ông Môshê và bầu một thủ lãnh khác dẫn họ trở về Ai Cập. Giavê Thiên Chúa nổi giận đánh phạt các người xuyên tạc và truyền cho ông Môshê dẫn toàn dân trở vào trong sa mạc, và Người phạt họ lang thang 40 năm trời, để cho thế hệ các người phản loạn chết hết trong sa mạc, và chỉ có con cháu họ đươc vào Đất Hứa mà thôi.

 Trước khi qua đời, ông Môshê đặt tay trên Giôsuê phong Giôsuê làm thủ lãnh thay ông dẫn đưa dân Israel vào Đất Hứa (1230-1220).

 2. Thời các Thủ lãnh (1200-1020)

      Sau khi hoàn tất cuộc vào Đất Hứa, các chi tộc sống hầu như độc lập trong vùng đất của mình. Chỉ khi nào bị đàn áp hay hiểm nguy các chi tộc mới huy động và liên minh với nhau để chống lại các thù địch. Trong suốt thời gian này Thiên Chúa đã chọn các Thủ Lãnh hướng dẫn dân Israel, đặc biệt khi phải chống lại các dân tộc khác đàn áp ước hiếp họ, nhất là người Philitinh. Sách thủ Lãnh kể lại chuyện của 12 Thủ Lãnh trong đó có bà Deborah và ông Samson (Tl 1-16).

      Năm 1050, khi nghe quân Philitinh cướp Hòm Bia Thiên Chúa và hai con đã bị giết, thầy cả Eli té ngửa ra sau, đầu đập vào cạnh cửa giập gáy mà chết. Vào khoảng năm 1040 Samuel được Thiên Chúa chọn làm ngôn sứ kiêm Thủ Lãnh dân Israel.

 3. Thời quân chủ (1030-587)

       Khi Samuel già ông đặt các con ông làm thủ lãnh, nhưng họ ngả theo lợi lộc, nhận qùa hối lộ và làm sai lệch công lý. Vì thế toàn thể các kỳ mục tụ tập nhau lại và xin ông Samuel lập cho họ một vi vua để xét xử và lãnh đạo họ, giống như các dân tộc khác.

      Samuel bất bình, nhưng Thiên Chúa bảo ông cứ nghe lời họ xin, vì họ gạt bỏ Người cứ không gạt bỏ ông. Thiên Chúa cũng truyền cho ông nói cho họ biết các hậu qủa tiêu cực sẽ xẩy ra cho họ và cho con cái của họ, khi sống dưới quyền cai trị của các vua. Nhưng dân chúng không chịu nghe tiếng ông Samuel. Thiên Chúa truyền cho Samuel xức dầu tấn phong Saul làm vua đầu tiên của dân Do thái (1030-1010 trước công nguyên).

      Trong cuộc chiến với người Philitinh vua Saul đã tự ý dâng tế lễ toàn thiêu cho Thiên Chúa, mà không chờ ngôn sứ Samuel tới để ông làm điều đó. Vì thế, ông sẽ bị phế bỏ và Thiên Chúa sẽ chọn một người khác. Thiên Chúa sai ngôn sứ Samuel xức dầu phong vương cho Đavít. Tuy nhiên, trong những ngày còn sống Saul được sự trợ giúp của Đavít. Chiến thắng của Đavít trên Goliát đã khiến cho quân Philitinh tán đởm kinh hồn, và từ đó trở đi Đavít là ngôi sao sáng trong triều đình của vua Saul, đánh đâu thắng đó. Nhưng vua Saul ghen tức với Đavít, và mấy lần tìm cách sát hại Đavít, khiến cho Đavít phải bỏ trốn và trở thành thủ lãnh của những người sống ngoài vòng pháp luật (1 Sm 17-24). Có dịp để trả thù và sát hại vua Saul, nhưng Đavít tôn trọng đấng được xức dầu của Thiên Chúa, mà không ra tay hạ sát vua Saul (1 Sm 26). Trong thời gian 2 năm Đavít và các quân binh của ông phục vụ vua Akhis người Philitinh, nhưng các vương hầu Philitinh khác không muốn ông cùng họ đánh nhau với người Do thái, vì sợ ông làm phản.

      Sau khi vua Saul qua đời trong trận đánh tại núi Gilboa năm 1010, Đavít lên làm vua Giuđa và toàn cõi Israel (1010-970 trước công nguyên), đánh đông dẹp bắc và thành lập một vương quốc rộng lớn, khiến cho mọi dân tộc chung quanh phải vị nể (2 Sm 8).

      Năm 972 vua Salomon lên ngôi thế vua cha cai trị vương quốc cho tới năm 933 trước công nguyên, và xây Đền Thờ Giêrusalem nguy nga lộng lẫy trong vòng 4 năm để dâng kính Thiên Chúa (1 V 6,1).

      Sau khi vua Salomon qua đời năm 933 trước công nguyên, vương quốc bị chia đôi thành vương quốc Israel miền Bắc và vương quốc Giuđa miền Nam.

           1) Vương quốc miền Bắc được cai trị bởi 18 vua sau đây:

      Gieroboam I (933-911), Nađáp (911-919), Baesha (910-887) Ela (887-886), Zimri (7 ngày), Omri (886-875) người xây cất thủ đô Samaria, Akhab (875-853), Akhazias (853-852), Gioram (852-841), Giehu (841-814), Gioakhaz (820-803), Gioas (803-787),m Gieroboam II (787-747), Dakharia (747), Shallum (747-746), Menahem (746-737), Pekahya (736-735), Pekah (735-732), Hosea (732-724).

      Ngôn sứ Elia hoạt động dưới thời vua Akhab, ngôn sứ Eliseo hoạt động dưới thời vua Gioram, hai ngôn sứ Amos và Hosea hoạt động dưới thời vua Gieroboam II.

      Năm 722 trước công nguyên vua Sargon II vua Assiria đánh chiếm vương quốc miền Bắc, đốt phá thủ đô Samaria bình địa, và đầy dân Do thái sang Ninive. Vương quốc miền Bắc biến khỏi lịch sử.

           2) Vương quốc Giuđa miền Nam được cai trị bởi các vua:

      Roboam (933-916), Abiyam (915-913), Asa (912-871) Giosaphat (870-846), Gioram (848-841), Akhazias (*41) Athalia (841-835), Gioas (835-796), Amasias (811-782), Azarias (= Ozias 781-740), Giotam (740-735), Akhaz (735-716), Ezekias (716-687), Manasse (687-642), Amon (642-640), Giosias (640-609), Gioakhaz (609), Giogiakim (609-598), Giogiakin (598-597), Sedecias (597-587).

      Ngôn sứ Nakhum hoạt động dưới thời vua Manasse, hai ngôn sứ Sophonia và Giêrệmia hoạt động dưới thời vua Giosias, hai ngôn sứ Giêrêmia và Khabacuc hoạt động dưới thời vua Giogiakim, ngôn sứ Edekien hoạt động dưới thời vua Sedecias.

      Năm 598 trước công nguyên vua Nabucodonosor của Babilonia bao vây thành Giêrusalem; thành đầu hàng, nhà vua và dân Do thái bị đi đầy đợt đầu tiên, trong số các người bị đi đầy có ngôn sứ Edekiel. Năm 589 trước công nguyên vua Sedecias nổi loạn chống đế quốc Babilonia. Năm 587 thành Giêrusalem bị chiếm và Đền Thờ bị đốt phá. Dân Do thái bị đi đầy bên Babilonia đợt thứ hai. Và năm 582-581 bị đi đầy đợt thứ ba.

 4. Thời đế quốc Ba Tư (538-333 trước công nguyên)

      Năm 538 vua Ciro cho phép người Do thái hồi hương dưới sự hướng dẫn của ông Shesbazar. Giữa các năm 520-515 người Do thái tái thiết Đền Thờ Giêrusalem. Hai ngôn sứ Khacgai và Dacaria hoạt động trong thời gian này.

      Năm 458 ông Esdra hoạt động tại Giêrusalem. Năm 445 ông Nehemia hiện diện tại Giêrusalem xúc tiến việc tái thiết tường thành. Năm 432 ông Nehemia hiện diện tại Giêrusalem lần thứ hai và đề ra các cải cách khác nhau.

      Giữa các năm 440-400 cộng đoàn Do thái Palestina liên lạc với các người do thái sống trong vùng Ai Cập Thượng.

      Khoảng năm 400 hoàn thành việc biên soạn toàn bộ Ngũ Thư.

 5. Thời đế quốc Hy Lạp (333-63)

      Năm 333 Aláchxăng Đại đế, con vua Philiphê của Macedonia, bắt đầu đánh chiếm các nước vùng Tiểu Á, Siria, Ai Cập, Ba Tư cho tới biên giới Ấn Độ và thành lập một đế quốc rộng mênh mông. Trước khi qua đời năm 323, ông chia đế quốc cho các tướng lãnh cai trị.

     Nhà Lagid cai trị Ai Cập, nhà Seleucid cai trị Siria và Babilonia. Vào thế kỷ thứ III Thánh Kinh Do thái được dịch ra tiếng Hy Lạp bên Alessandria: đó là bản dịch Septanta hay Bản Dịch Bẩy Mươi viết tắt là LXX. Giữa các năm 320-200 Palestina nằm dưới quyền cai trị của nhà Lagid. Nhưng sau đó giữa các năm 200-142 Palestina nằm dưới quyền cai trị của nhà Seleucid. Chương trình hy lạp hóa Palestina khiến cho dân Do thái gặp rất nhiều khó khăn với các vua nhà Seleucid.

      Năm 167 trước công nguyên, vua Antioco Epifane IV ra sắc lệnh cấm Do thái giáo và dâng kính Đền Thờ Giêrusalem cho thần Zeus. Cuộc bách hại Do thái giáo khiến cho thầy cả Mattathias nổi loạn. Ông và các con cùng các tín hữu trung thành với Lề Luật vùng dậy tổ chức phong trào kháng chiến. Cuộc kháng chiến do Giuđa con của ông lãnh đạo. Năm 164 trước công nguyên quân kháng chiến tái chiếm thành Giêrusalem và thanh tẩy Đền Thờ. Năm 160 Giuđa Macabei tử trận.

      Gionathan anh của Giuđa lên lãnh đạo (160-143) và đánh chiếm mở rộng đất của người Do thái. Gionathan được chỉ định làm thượng Tế năm 152.

      Simon, một người anh khác của Giuđa, tiếp nối sự lãnh đạo của nhà Macabei (143-134).

      Dân Do thái được độc lập (142-63). Gioan Hyrcano con của Simon cai trị giữa các năm 134-104. Aristobulo I con ông cai trị giữa các năm 104-103 lấy tước hiệu là vua. Tiếp đến là Alessandro Janné, em của Aristobulo, cai trị giữa các năm 103-76 trước công nguyên. Rồi tới phiên Alessandra vợ ông cai tri giữa các năm 76-67. Sau đó hai con của Alessandra là Hyrcano II và Aristobulo II tranh giành quyền bính và chức Thượng Tế. Năm 63 trước công nguyên Pompeo tướng Roma đánh chiếm Giêrusalem.

 6. Thời đế quốc Roma (từ năm 63 trở về sau)

      Năm 50 trước công nguyên đất Palestina sống trong rối loạn: Hyrcano II là thượng tế, nhưng tướng Antipater lãnh đạo quốc gia.

     Năm 40 Palestina bị người Parthe xâm lăng. Antigone con vua Aristobulo II là vua và là Thượng tế. Xảy ra các tranh chấp nội bộ giữa các phe phái khác nhau.

      Năm 37 trước công nguyên, Hêrôđê, con vua Antipater, chiếm thành Giêrusalem và cai trị nó cho tới năm thứ 4 trước công nguyên, là năm Đức Giêsu Con Thiên Chúa nhập thể làm người và chào đời, khai mào công trình cứu độ con người.

II. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH THÁNH KINH CỰU ƯỚC

       Thánh Kinh Cựu Ước đã thành hình từ từ dọc dài 1.000 năm theo các chặng chính sau đây:

 1. Dưới thời vương quốc Giêrusalem (vua Đavít 1010-970, và vua Salomon 972-933 trước công nguyên)

      Vua Salomon đã thừa hưởng được từ vua Đavít một vương quốc rộng lớn, hùng mạnh và thịnh vượng chưa từng thấy trong lịch sử dân Israel. Nhà vua tổ chức triều chính theo kiểu tổ chức của Pharaô Ai Cập với giới ký lục có bổn phận biên chép mọi sự. Bầu khí hòa bình và sự thịnh vượng chính trị, kinh tế cũng giúp cho nền văn hóa nở hoa. Người ta bắt đầu biên soạn các truyền thống. Thánh Kinh Cựu Ước ghi lại hai tác phẩm bị mất: ”Sách của người công chính”, và ”Sách các cuộc chiến của Giavê”.

      Dưới thời vua Salomon người ta cũng biên soạn: lịch sử Hòm Bia Thánh (1 Sm 2-5) lịch sử kể vị vua Đavít (2 Sm 9-20). Thế rồi người ta cũng thu thập các bài thơ như Thánh thi của Hòm Bia và Điếu văn khóc Abner, chắc chắn là do chính vua Đavít biên soạn (2 Sm 1; 3). Có lẽ vài thánh vịnh và các câu nói, sau này sẽ được gom lại trong sách các Châm Ngôn, cũng đã được sáng tác trong thời này.

      Nhưng nhất là người ta biên soạn Lịch sử thánh của vương quốc Giuđa miền Nam, cũng gọi là Truyền Thống Giavít (viết tắt là J).

 2. Trong thời vương quốc miền Bắc (935-721)

      Sau khi vua Salomon băng hà, vương quốc thống nhất bị chia đôi thành vương quốc Israel miền Bắc, và vương quốc Giuđa miền Nam. Năm 722 trước công nguyên Vương quốc miền Bắc bị vua Sargon II của đế quốc Assiria đánh chiếm. Thủ đô Samaria bị phá hủy và thiêu rụi hoàn toàn.

      Vào thế kỷ thứ IX người ta biên soạn các truyền thống liên quan tới ngôn sứ Elia (1 V 17-19; 21; 2 V 1-2); và vào khoảng năm 750 ”Hạnh ngôn sứ Elidêô” (2 V 3-9) hay các trang đẹp của lịch sử như trình thuật cuộc cách mạng của ông Giêhu (2 V 9-10).

      Một vài lời sấm của ngôn sứ Amos và Hosê cũng được ghi chép. Chắc hẳn vào năm 750 người ta cũng biên soạn Lịch sử vương quốc miềm Bắc, mà chúng ta gọi là Truyền thống Êlôhít (viết tắt là E).

      Sau cùng người ta cũng thu thập các luật lệ để thích ứng luật cũ với tình trạng mới của xã hội. Chúng mang nặng ảnh hưởng sứ điệp của các ngôn sứ, nhất là của ngôn sứ Hosê. Các tập luật lệ này được gọi là Truyền Thống Đệ Nhị Luật (viết tắt là D) và sẽ là nhân tố của sách Đệ Nhị Luật.

 3. Trong thời vương quốc Giuđa (721-587)

      Trước khi vương quốc Israel miền Bắc bị đế quốc Assiria xâm lăng và tàn phá vào năm 722 trước công nguyên, một số thầy Lêvi chạy trốn về Giêrusalem, đem theo các tác phẩm văn chương biên soạn tại miềm Bắc như Lịch sử miền Bắc, tức Truyền Thống Êlôhít, các sưu tập luật lệ, sấm ngôn của các ngôn sứ đã rao giảng tại vương quốc miền Bắc vv… Các Luật Lệ xem ra qúa in dấu tinh thần miền Bắc, vì thế chúng bị ”kỳ thị” và lãng quên trong một thế kỷ, vì bị để nằm mốc meo trong thư viện của Đền Thờ. Năm 622 trước công nguyên, tình cờ trong một lần tu sửa Đền Thờ vua Giosia khám phá ra các Luật Lệ này và dựa trên đó để phát động cuộc canh cải tôn giáo. Một số các ký lục bắt đầu trộn lẫn hai tài liệu với nhau: Lịch sử miềm Nam hay Truyền Thống Giavít và Lịch sử miền Bắc hay Truyền Thống Êlôhít, và làm thành một tài liệu thứ ba gọi là Truyền Thống Giêhôvít (viết tắt là JE). Việc hòa nhập hai truyền thống khéo đến độ khó có thể phân biệt được chúng trong văn bản Giêhôvít. Nó là gia tài chung của các chi tộc miền Bắc và miền Nam.

      Cuộc cải các tôn giáo do vua Giôsia phát động sẽ đưa ra ánh sáng các Luật Lệ bắt nguồn từ miền Bắc. Chúng sẽ được bổ túc và trở thành sách Đệ Nhị Luật.

      Dưới ánh sáng giáo huấn của sách Đệ Nhị Luật người ta bắt đầu tổ chức các truyền thống liên quan tới Giôsuê, các Thủ Lãnh, Samuel và các Vua. Được biên soạn lại các sách này sẽ trở thành một minh giải bằng hình những gì soạn giả Đệ Nhị Luật tìm diễn tả bằng các diễn văn.

      Sau cùng người ta cũng biên chép ra các sấm ngôn của các ngôn sứ: Xôphônia, Nakhum, Habakkúc, Giêrêmia. Nhiều Thánh Vịnh chắc chắn đã được sáng tác trong thời gian này, trong khi các nhà khôn ngoan tiếp tục các suy tư của họ liên quan tới nhiều vấn đề cuộc sống, đặc biệt về cái chết của vua Giôsia.

 4. Trong thời lưu đầy bên Babilonia (587-538)

      Năm 587 trước công nguyên Nabucodonosor vua Babilonia thống lãnh đại binh tiến đánh vương quốc Giuđa, triệt hạ Giêrusalem và đốt phá bình địa Đền Thờ và thành thánh. Dân Do thái mất hết mọi sự bị đầy sang Babilonia và chỉ còn lại các Truyền Thống. Vì thế họ đọc lại các Truyền Thống đó với tất cả sự đam mê. Hai ngôn sứ Êdêkien và Isaia II đã rao giảng trong thời gian này, một vị vào ban đầu vị kia vào cuối thời lưu đầy.

      Các tư tế thu thập các luật lệ đã biên soạn tại Giêrusalem vào cuối thời vương quốc Giuđa: Luật lệ sự thánh thiện (Lv 17-26). Được khai triển sau thời lưu đầy nó sẽ trở thành sách Lêvi.

      Để nâng đỡ niềm tin và lòng hy vọng của dân Israel, một lần nữa các tư tế tìm dẫn đưa họ trở về nguồn. Việc đọc lại lịch sử này được gọi là Truyền Thống Tư Tế và là truyền thống thứ 4 làm thành chất liệu của Bộ Ngũ Thư hay Ngũ Kinh, tức 5 cuốn sách đầu tiên của Thánh Kinh Cựu Ước. Như thế các yếu tố của Bộ Ngữ Thư đã sẵn sàng, chỉ cần thu thập chúng vào một tác phẩm duy nhất. Điều này sẽ được thực hiện vào năm 400 trước công nguyên.

      Các tai ương, khổ đau khốn khó phải chịu cũng như việc tiếp xúc trước hết với tư tưởng Babilonia và sau đó với tư tưởng Ba Tư, sẽ dẫn đưa các nhà khôn ngoan tới chỗ đào sâu suy tư về các vấn đề cuộc sống con người. Sự kiện này sẽ dẫn đưa tới chỗ biên soạn các tác phẩm như sách ông Gióp trong các thế kỷ sau thời lưu đầy.

      Một cách dễ dàng người ta cũng có thể tưởng tượng được rằng lời cầu nguyện của các tín hữu cũng sẽ có một giọng điệu khác. Một Thánh Vịnh, chẳng hạn thánh vịnh 137 hay 44; 80; 89 có thể nảy sinh ra như lời kêu cầu lên Thiên Chúa tín trung. Tại Giêrusalem, một số tín hữu Do thái không bị đi đầy đã than van khóc lóc với các lời được thu góp trong sách Ai Ca, được gán một cách sai lầm cho ngôn sứ Giêrêmia.

  5. Trong thời thống trị của đế quốc Ba Tư (538-333)

      Năm 538 vua Ciro ký sắc lệnh cho dân Do thái hồi hương chấm dứt 50 năm lưu đầy bên Babilonia. Trong thời gian này có nhiều ngôn sứ đã rao giảng như: Khácgai, Dacaria, Malakhi, Ôvađia, và nhất là Isaia III.

      Nhưng nhất là thời đại này bị ảnh hưởng của các ký lục và các nhà khôn ngoan. Các ký lục như Étra đọc lại các tác phẩm và thu thập chúng lại như bộ Ngũ Thư, hay bổ túc chúng như các sách Sử Biên, Étra, Nơkhêmia.

      Các nhà khôn ngoan cũng thu thập các suy tư đã có từ trước và bắt đầu biên soạn các tác phẩm lớn như sách Rút, Giôna, Châm Ngôn, Gióp.

       Các Thánh Vịnh bắt đầu được hiệp nhất thành các tập và mau chóng trở thành sách Thánh Vịnh.

 6. Dưới thời đô hộ của Người Ky Lạp (333-63) và của người Roma (từ sau năm 63 trước công nguyên)

      Năm 333 Aláchxăng Đại đế bắt đầu đánh chiếm khắp nơi và thành lập một đế rộng mênh mông trải đài từ Ai Cập sang toàn vùng Medopotamia cho tới sát biên giới Ấn Độ. Năm 63 trước công nguyên Pompeo thống lĩnh đạo binh Roma đánh chiếm Palestina. Sau khi nằm đưới ách thống trị của đế quốc Hy Lạp, nước Palestina rơi vào tay đế quốc Roma.

      Trong thời gian này có ngôn sứ Dacaria II rao giảng. Tiến trình hy lạp hóa Palestina khơi dậy các phản ứng khác nhau phò hay chống. Các tác phẩm của nền văn chương khôn ngoan được sáng tác trong thời gian này như các sách: Giảng Viên (Qohelet), Huấn Ca (Ben Sira), Tobia, Diễm Ca, Barúc, Khôn Ngoan. Thánh Kinh Do thái được dịch ra tiếng Hy Lạp tại Alessandria bên Ai Cập, gọi là bản dịch Hy Lạp Bẩy Mươi (viết tắt LXX).

      Các cuộc bách hại người Do thái do vua Antioco IV Epifane phát động năm 167 trước công nguyên làm nảy sinh ra nền văn chương kháng chiến với các tác phẩm như: sách Étte, Giuđitha, Macabê I-II. Nó cũng khiến cho một trào lưu văn chương, thần học phát triển với một loại văn thể đặc biệt là trào lưu khải huyền. Tác phẩm điển hình nhất là sách ngôn sứ Đanien.

      Các Thánh Vịnh cuối cùng được sáng tác và làm thành sách Thánh Vịnh.

      Trong lịch sử hình thành kéo dài 1.000 năm đó tác phẩm cuối cùng của Thánh Kinh Cựu Ước là sách Khôn Ngoan, được biên soạn ra vào năm 50 trước công nguyên.

      Tuy nhiên, nhiều chất liệu của Thánh Kinh Cựu Ước đã có từ nhiều thế kỷ trước và đã hiện hữu trong truyền thống chuyềm miệng và các anh hùng ca. Các biến cố, các câu chuyên hay giai thoại được kể lại từ thế hệ này sang thế hệ khác trong các chi tộc. Chẳng hạn như cuộc đời của các tổ phụ (St 12-50), hay biến cố xuất hành, cuộc giải phóng dân Israel khỏi kiếp sống nô lệ bên Ai Cập, lịch sử đánh chiếm Đất Hứa, những chuyện xảy ra thời các thủ lãnh, các luật lệ vv… Tất cả là các chất liệu đã có từ thế kỷ XIX tới thế kỷ XI trước công nguyên, đa số trong hình thái chuyền miệng, và nói chung đã được biên soạn ra sau đó, bắt đầu từ thời quân chủ, đặc biệt dưới triều đại của vua Salomon.

III. CÁC VĂN THỂ TRONG THÁNH KINH

       Để kể lại lịch sử hay miêu tả các kinh nghiệm của Israel dân được tuyển chọn, các soạn giả kinh thánh dùng nhiều văn thể khác nhau.

      Văn thể là các kiểu diễn tả khác nhau nhằm kể lại các biến cố hay miêu tả các thực tại. Chẳng hạn khi kể lại bệnh tình của một người thân cho một bác sĩ hay cho một nhân viên của văn phòng bảo hiểm sức khỏe, chúng ta dùng các giọng văn khác nhau. Và khi kể, chúng ta cũng dùng các giọng điệu khác nhau tùy theo mức độ thân quen với vị bác sĩ hay nhân viên bảo hiểm sức khỏe. Thế rồi việc kể lại đó cũng còn tùy thuộc tình trạng của người bệnh đang giở sống giở chết hay đã khỏi bệnh nữa vv…

      Tiến sâu hơn một chút, các kiểu trình bầy sự vật hay các văn thể tương ứng với các nhu cầu khác nhau trong cuộc sống của một nhóm người. Mỗi nhóm xã hội đều có một số văn bản nào đó. Thí dụ một hiệp hội câu cá có nội quy riêng đưa ra các điều luật của hội mà mọi thành viên đều phải tuân giữ (nội quy là văn bản có tính cách luật pháp). Thế rồi hội cũng có các khẩu hiệu hay các câu ngắn gọn đánh động tiêu biểu (Hãy di nghỉ hè và câu cá!”), các giai thoại câu cá hi hữu, được thêm mắm thêm muối, thêu thùa, phóng đại trở thành một loại ”anh hùng ca” của hội, trong đó người ta kể lại vụ câu một con kình ngư, hay một con cá mập, hoặc vụ đuổi theo một con cá gươm, như là một cuộc mạo hiểm với các tình tiết nguy hiểm, kỳ bí hấp dẫn đến độ mọi người ta phải há miệng ra mà nghe vv… Ngoài ra, hội còn tổ chức các buổi tranh giải, các lễ kỷ niệm, các buổi gặp gỡ, các bữa tiệc vui vv…

      Như thế, để hiện hữu, mỗi xã hội, mỗi hiệp hội đều tạo ra một nền văn chương riêng. Một dân tộc có các luật lệ, các biến cố và trình thuật lich sử, các buổi lễ, các kỷ niệm, các anh hùng ca, các bài thơ phú, cũng như các bài hát riêng của mình.

 1. Các câu chuyện

      Cần phải nhớ lại qúa khứ và trao ban cho mọi người một tâm thức chung. Chính khi nghe các bô lão kể chuyện mà người ta ý thức được mình thuộc về một gia đình, một chi tộc, một chủng tộc, một vùng miền, một quốc gia. Các câu chuyện kể lại cuộc đời các tổ phụ trong sách Sáng Thế thuộc loại này.

2. Anh hùng ca

      Anh hùng ca cũng là một văn thể kể lại những chuyện qúa khứ, nhưng với mục đích khơi dậy lòng hăng say, hãnh diện và ca ngợi các vị anh hùng của dân tộc, vì thế chúng thường được thêu dệt bằng nhiều chi tiết đặc biệt hay đẹp, đáng khâm phục. Nhiều trang trong sách Xuất Hành và đặc biệt sách Thủ Lãnh thuộc loại này.

3. Các luật lệ

      Các luật lệ giúp tổ chức cuộc sống chung của một dân tộc. Tất cả các văn bản nói về luật lệ trong sách Xuất Hành, Lêvi, đặc biệt là Đệ Nhị Luật đều thuộc loại văn thể này.

4. Phụng vụ, các việc cử hành, các lễ nghi

      Chúng diễn tả cuộc sống chung của một dân tộc, chẳng hạn các hiến tế, các bữa ăn trong một ngày lễ nối kết và gắn chặt các liên hệ trong gia tộc. Như là các hành động tôn giáo chúng biểu lộ tương quan của con người với Thiên Chúa. Sách Lêvi và sách Đệ Nhị Luật thuộc loại này.

5. Các bài thơ, các thánh thi và thánh vịnh

      Chúng diễn tả các tâm tình đức tin của dân Chúa. Tín hữu cầu nguyện với Thiên Chúa, giải bầy các ưu tư, lo lắng, phiền muộn, khổ đau, hay nỗi vui sướng, hạnh phúc, hoặc tâm tình tri ân cảm mến đối với Thiên Chúa, hay sự uất ức trước các bất công tàn ác ủa con người, và đôi khi cả lời nguyền rủa thù địch và giao phó chúng cho sự công thẳng của Thiên Chúa.

6. Các sấm ngôn

      Đây là văn thể các ngôn sứ thường dùng. Chúng là các lời phán trang trọng của Thiên Chúa nhằm tố cáo các tội lỗi và cung cách sống phản bội của dân Israel, mời gọi họ bỏ đường tội lỗi để ăn năn hoán cải, trở về với Ngài, hay những lời đe dọa đánh phạt tội lỗi của họ, hoặc các khích lệ họ sống thánh thiện tốt lành.

 7. Giáo huấn

      Đây là văn thể thông thường của các ngôn sứ, của hàng tư tế. Nó thường được trình bầy trong hình thái dậy dỗ, nhưng cả trong các trình thuật và các câu chuyện hay các dụ ngôn nữa.

 8. Các suy tư khôn ngoan

      Các suy tư khôn ngoan liên quan tới các vấn nạn ngàn đời của con người như: tại sao có sự sống, cái chết, sự dữ và khổ đau vv… Đây là các đề tài được các sách khôn ngoan của Thánh Kinh nói tới.

 9. Huyền thoại

      Huyền thoại là một văn thể có tính cách khôn ngoan, đặc biệt phong phú và sâu sắc. Nó không phải là sản phẩm của óc tượng tượng, chống đối tôn giáo hay phản lịch sử, mà nó là một khả năng nắm bắt được một cách trực giác các thực tại tôn giáo, vô hình và siêu việt.

      Mười một chương đầu sách Sáng Thế chứa đựng rất nhiều yếu tố huyền thoại là kiểu diễn tả chung của các dân tộc vùng Trung Đông Cổ ngày xưa như hình ảnh cặp vợ chồng Adam Eva, vườn Eden hay vườn Địa Đàng, con Rắn, lụt hồng thủy, tháp Babel vv… Các soạn giả kinh thánh lấy lại các hình ảnh biểu tượng, các kiểu diễn tả chung của các dân tộc khác và sử dụng chúng cho các trình thuật của mình, nhưng thanh tẩy chúng khỏi quan niệm đa thần và trao ban cho chúng sứ điệp thần học.

     Mỗi kiểu diễn tả, mỗi loại văn thể, có sự thật của nó. Chúng ta không thể trách chuyện bằng hình Asterix là không chính xác như một cuốn sách lịch sử. Cũng thế, không được đọc trình thuật tạo dựng trong chương 1 và chương 2 sách Sáng Thế như một khảo luận khoa học nhằm giải thích nguồn gốc vũ trụ và nguồn gốc con người. Chương 1 là một bai thơ phụng vụ. Chương 2 là một câu chuyện. Cũng không được đọc trình thuật dân Do thái vượt qua Biển Đỏ sách Xuất Hành chương 14 như là một bài phóng sự trực tiếp biến cố xảy ra, vì nó là một anh hùng ca.

      Như thế, mỗi lần có thể, đều phải hỏi xem văn bản chúng ta đang đọc có văn thể nào và đâu là loại sự thật mà nó muốn nhắn gửi chúng ta.

       Linh mục Giuse Linh Tiến Khải

 

by Tháng Mười Hai 29, 2012 2 comments Tâm Linh, Thánh Kinh Cựu Ước
Lịch sử Thánh Kinh 2

Lịch sử Thánh Kinh 2

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/12/bibbia.jpg

THÁNH KINH: MỘT CUỐN SÁCH HAY MỘT THƯ VIỆN? (2)

  Khi nói tới Thánh Kinh, chúng ta thường chỉ nghĩ tới một cuốn sách. Nhưng thật ra, Thánh Kinh là một thư viện, vì nó bao gồm 73 tác phẩm khác nhau, do nhiều soạn giả biên soạn, trong các thời đại khác nhau, với các sứ điệp nhằm đáp ứng nhiều nhu cầu khác nhau của dân Israel. Còn hơn thế nữa, Thánh Kinh là cả một thế giới cần được khám phá, tìm hiểu và đào sâu. Lý do là vì nó không chỉ liên quan tới dân Israel, mà cũng liên quan tới các dân tộc khác sống trong vùng Trung Đông Cổ, mà các học giả gọi là ”Nửa vành trăng phì nhiêu”, chạy từ Ai Cập cho tới vùng Mêdôpôtamia, tức vùng Lưỡng Hà hay Iran và Irak ngày nay.

  I. THÁNH KINH LÀ MỘT THƯ VIỆN

 1. Tên gọi

  Thánh Kinh (Bibbia tiếng Latinh và tiếng Ý, Bible tiếng Pháp và tiếng Anh, Bibel tiếng Đức, Biblia tiếng Tây Ban Nha vv… ) bắt nguồn từ chữ hy lạp ”biblia”, số nhiều của từ trung tính ”biblion”, có nghĩa là cuốn sách nhỏ, là từ giảm thiểu của từ ”biblos” là cuốn sách. Như thế Thánh Kinh ”Biblia” có nghĩa là ”các cuốn sách nhỏ”. Thật thế, vì các sách dài nhất của Thánh Kinh, thí dụ như sách ngôn sứ Isaia có 66 chương, cũng không thể so sánh với các sách tiểu thuyết ngắn nhất trong nền văn chương Italia thuôc thế kỷ XX. Dịch ra tiếng Latinh từ ”Biblia” trở thành giống cái số ít ”Bibbia”.

 Hơn là một cuốn sách, Thánh Kinh là một thư viện bao gồm nhiều tác phẩm, rất khác nhau, và chia thành hai cuốn lớn: Thánh Kinh Cựu Ước dài gồm 46 tác phẩm, viết tắt là AT (Antico Testamento tiếng Ý, Ancien Testament tiếng Pháp) hay OT (Old Testament tiếng Anh); và Thánh Kinh Tân Ước ngắn hơn gồm 27 tác phẩm, viết tắt là NT (Nuovo Testamento tiếng Ý, Nouveau Testament tiếng Pháp, New Testament tiếng Anh).

 Từ ”Testamento” không có nghĩa ”di chúc” như trong từ vựng của chúng ta ngày nay, nhưng là từ bắt chước từ ”Testamentum” tiếng Latinh, dịch từ do thái ”berith”, ”giao ước ”, hay hiệp ước, công ước, khế ước hoặc giao kèo giữa hai bên, ở đây là giữa Thiên Chúa và dân Israel. Như thế Thánh Kinh là các sách nói về giao ước Thiên Chúa ký kết với dân Israel qua trung gian ông Môshê trong thời Cựu Ước, và đã thành toàn nơi Đức Giêsu Kitô trong thời Tân Ước.

 Thánh Kinh thường được gọi là ”la Scrittura” Sách, ”le Scritture” Các Sách (Rm 15,4; Ga 10,34-36), hay ”le Sacre Scritture” Các Sách Thánh. Đây là điều quan trọng và ít nhất nó có hai nghĩa hay ám chỉ hai điều: đây là Lời Chúa đã được viết ra thành văn bản; như vậy, có thể có một Lời Chúa không được viết ra. Đàng khác, điều đối với chúng ta là Lời Chúa là các bút tích chứ không phải các biến cố hay các lời đã được nói ra trước khi được biên soạn thành văn bản. Đây là vấn đề của truyền thống viết và truyền thống chuyền miệng, mà chúng ta sẽ có dịp tìm hiểu.

  2. Các sách

  Phần thứ nhất của Thánh Kinh là Thánh Kinh Cựu Ước chung cho tín hữu do thái cũng như tín hữu kitô.

 Các tín hữu do thái, được các tín hữu tin lành theo, chỉ thừa nhân các sách đã được biên soạn bằng tiếng do thái, tức 39 cuốn. Trong khi các tín hữu công giáo thừa nhận 7 cuốn khác được biên soạn bằng tiếng hy lạp. Đó là các sách: Giuđitha, Tobia, 1 Macabê, 2 Macabê, Khôn Ngoan, Huấn Ca, Baruc và Thư Giêrêmia.

 Các tín hữu tin lành gọi 7 cuốn này là ”apocrifi” và các tín hữu công giáo gọi chúng là ”deuterocanonici”.

  Từ ”canone” có nghĩa là ”quy luật”. Một cuốn sách được gọi là ”canonico” ”hợp quy”, nếu đựơc thừa nhận như là quy luật đức tin. Quy luật các sách thánh là danh sách các tác phẩm được thừa nhận như là luật đức tin. Tuy nhiên, phải chú ý tới hai danh sách khác nhau. Cho tới thế kỷ thứ I trước công nguyên, các tín hữu do thái đã không đặt vấn đề liên quan tới 7 tác phẩm biên soạn bằng tiếng hy lạp nói trên. Nhưng vào năm 90 sau công nguyên các rabbi sống tại Palestina đã nhóm Công Nghị tại Jamnia, và dưới ảnh hưởng của phe bảo thủ mạnh hơn, họ chỉ thừa nhận các sách được biên soạn bằng tiếng do thái.

 Các tín hữu kitô đọc Thánh Kinh tiếng hy lạp theo danh sách của tín hữu do thái sống tại Alessandria bên Ai Cập, nơi Thánh Kinh do thái đã được dịch ra tiếng hy lạp gọi là Bản Dịch Bẩy Mươi hay Thánh Kinh hy lạp LXX. Tuy nhiên vào đầu thế kỷ thứ V khi dịch Thánh Kinh Do thái ra tiếng Latinh, gọi là bản Vulgata thánh Girolamo đã theo danh sách Thánh Kinh Do thái.

 Trong thời Cải Cách hồi thế kỷ XVI, các tín hữu tin lành theo thánh Girolamo và in 7 tác phẩm Thánh Kinh Cựu Ước nói trên vào cuối sách và gọi chúng là ”apocrifi”, ”apocryphos” trong tiếng hy lạp có nghĩa là ”bị giấu đi”, ”bí mật ”. Nhưng trong các ấn bản thuộc thế kỷ XIX các tác phẩm này bị loại bỏ luôn khỏi Thánh Kinh Tin lành.

 Trong Công Đồng Chung Trento, tín hữu công giáo thừa nhận 7 tác phẩm kể trên (Giuđitha, Tobia, 1 Macabê, 2 Macabê, Khôn Ngoan, Huấn Ca, Baruc và Thư Giêrêmia) là được linh hứng giống như các sách khác của Thánh Kinh Cựu Ước, và gọi chúng là các sách ”deuterocanonici”, nghĩa là được chấp nhận trong danh sách hợp quy đợt hai.

 Thánh Kinh Tân Ước giống nhau đối với tất cả mọi kitô hữu và gồm 27 tác phẩm.

 Như thế, ”thư viện kitô” hay Thánh Kinh Kitô gồm 66 (Tin Lành) hay 73 (Công Giáo) tác phẩm, đã được liệt kê trong các danh sách cổ xưa, chẳng hạn như danh sách của Công Đồng Phi châu nhóm tại thành phố Ippona năm 393 sau công nguyên, danh sách Công Đồng nhóm tại thành phố Cartagine năm 397 và 419.

  3. Việc sắp xếp các tác phẩm

  Việc sắp xếp thứ tự các tác phầm của Thánh Kinh Tân Ước giống nhau trong mọi sách Thánh Kinh. Trái lại, đối với Thánh Kinh Cựu Ước có hai loại sắp xếp.

  Thánh Kinh Do thái gồm 3 phần:

 1) Torah hay Lề Luật (chúng ta gọi là Pentateuco Ngũ Thư hay Ngũ Kinh) bao gồm 5 cuốn sách đầu tiên của Cựu Ước. Người Do thái lấy từ đầu tiên hay một từ trong câu đầu tiên để gọi tên sách

 1/ Bereshit (Từ khởi nguyên: Sáng Thế ); 2/ Shemốt (Các tên: Xuất Hành); 3/ Wayiqra (Và người gọi: Lêvi); 4/ Bemidbar (Trong sa mạc: Dân Số); 5/ Debarim (Các lời: Đệ Nhị Luật).

  2) Nebiim hay Ngôn Sứ , chia thành hai nhóm:

 các ngôn sứ trước (profeti anteriori) mà chúng ta gọi là các sách ”Sử Ký” và

các ngôn sứ sau (Profeti posteriori)

 – Nebiim rishonim (Các ngôn sứ trước: các Sách Sử Ký)

 6/ Yehoshua (Giôsua); 7/ Shofetim (Các Thủ Lãnh); 8/ Samuel (Samuel I-II); 9/ Sefer malchim (sách Các Vua I-II);

 – Nebiim aharonim (Các ngôn sứ sau: các Sách Ngôn Sứ)

 10/ Yeshaiyahu (Isaia); 11/ Yirmeyahu (Giêrêmia); 12/ Yekhezeqel (Êdêkien) 13/ Hoshea (Hôsê); 14/ Yoel (Giôen); 15/ Amos (Amốt); 16/ Obadiya (Ôvađia); 17/ Yonah Giôna); 18/ Mikah (Mika); 19/ Nakhum (Nahum); 20/ Khabaqquq (Khabacúc); 21/ Zephanyah (Xôphônia): 22/ Khaggay (Khácgai); 23/ Zekaryah (Dacaria); 24/ Malaki (Malakhi).

  3) Ketubim hay các Sách khác

  25/ Tehillim (Thánh Vịnh); 26/ Iob (Gióp); 27/ Mishley (Châm Ngôn); 29/ Shir hashirim (Diễm Ca); 30/ Kohelet (Giảng Viên); 31/ Ester (Étte); 32/ Daniel (Đanien); 33/ Ezra (Étra); Nekhemyah (Nơkhemia); 34/ Debarey hayomim I-II (Sử Biên I-II).

  Tín hũu do thái lấy ba chữ đầu tiên của ba nhóm sách nói trên (Torah, Nebiim, Ketubim) ghép lại với nhau thành từ Tanakh để gọi Thánh Kinh Do thái ”ha Tanakh”.

 Bản dịch Thánh Kinh đại Kết tiếng Pháp (TOB) theo kiểu sắp xếp này của Thánh Kinh Do thái, và để vào cuối 7 tác phẩm chỉ được các kitô hữu thừa nhận.

 Đa số các bản dịch Thánh Kinh khác đều theo cách sắp xếp của Bản dịch Thánh Kinh Hy lạp Bẩy Mươi, là Bản Thánh Kinh tín hữu Do thái Alessandria bên Ai Cập dùng, theo đó các sách được chia thành 4 nhóm: Ngũ Thư hay Ngũ Kinh, các Sách Sử Ký, các Sách Khôn Ngoan và Thơ Phú, các Sách Ngôn Sứ.

  4. Các thứ tiếng

  Thánh Kinh Cựu Ước được biên soạn bằng tiếng do thái và có vài đoạn bằng tiếng aramây. Hai thứ tiếng này (cũng như tiếng A rập) chỉ được viết với các phụ âm. Người đọc phải thêm các nguyên âm vào theo nghĩa họ hiểu. Bắt đầu từ thế kỷ thứ VII một số các hiền nhân do thái gọi là ”masoreti” đã thêm các phụ âm vào bên trên hay bên dưới các nguyên âm của văn bản để duy trì ý nghĩa chính xác của nó. Đây là lý do tại sao đôi khi người ta gọi bản văn kinh thánh do thái là ”Bản văn Masoretico”.

  Thánh Kinh Cựu Ước đã được dịch ra tiếng hy lạp bắt đầu vào thế kỷ thứ III trước công nguyên tại Alessandria bên Ai Cập. Theo truyền thuyết đã có 70 ký lục dịch Thánh Kinh do thái ra tiếng hy lạp. Họ làm việc riêng rẽ, nhưng bản dịch của họ lại giống nhau. Ý nghĩa của truyền thuyết này quan trọng: nó có nghĩa là một bản dịch như thế chỉ có thể được linh hứng bởi Thiên Chúa. Chính vì vậy bản dịch này được gọi là Bản Dịch của Bẩy Mươi Ký lục (la traduzione dei Settanta) hay Bản Dịch Bẩy Mươi (La Settanta), viết tắt là LXX.

 Cũng có các bản dịch hy lạp khác như các bản dịch của Aquila, của Simmaco, của Teodozione.

 Thánh Kinh Tân Ước đã được biên soạn bằng tiếng hy lạp, loại hy lạp bình dân được nói thời đó, không còn tương đương với tiếng hy lạp cổ điển nữa. Nó được gọi là tiếng hy lạp ”koine”, ”chung, thông dụng, thông thường”.

 Các chuyên viên dịch Thánh Kinh từ bản văn gốc, nghĩa là từ tiếng do thái cho các sách Thánh Kinh Cựu Ước, và từ tiếng hy lạp cho các sách Thánh Kinh Tân Ước.

 Trong số các bản dịch Thánh Kinh cổ xưa phải kể tới Bản dịch tiếng Siriac, tiếng Copte (tức ngôn ngữ cổ ai Cập) và tiếng Latinh. Bản văn Latinh cổ có trước thời thánh Girolamo gọi là Bản Vetus Latina . Trong khi bản văn Latinh do thánh Girolamo dịch gọi là Bản Vulgata . Hồi cuối thế kỷ thứ IV đầu thế kỷ thứ V thánh Girolamo đã sống trong một phòng gần hang đá Bếtlêhem để hoàn thành bản dịch Latinh phổ thông này.

  5. Cách phân chia thành chương và câu

  Để dễ tìm và trích các bản văn kinh thánh năm 1226 Đức Hồng Y Stephen Langton (1150-1228), Tổng Giám Mục Cantebury, Anh quốc, nảy ra ý tưởng chia các sách Thánh Kinh thành các chương. Sau đó năm 1551 nhà ấn loát Robert Etienne, người Pháp, chia các chương thành các câu.

 Tuy việc phân chia các sách kinh thánh thành các chương và câu không luôn luôn tương xứng với ý nghĩa của văn bản, nhưng nó rất thực tế và ích lợi, nên mọi ấn bản kinh thánh đều sử dụng. Như thế, để tìm một văn bản kinh thánh chỉ cần nói tên sách, chương và câu là có thể tìm ra ngay.

  – Trước hết là tên sách viết tắt, rồi số đầu tiên là chương, số theo sau là câu. Thí dụ: St 1,2 có nghĩa là sách Sáng Thế chương 1 câu 2; Đnl 30,11-14 có nghĩa là sách Đệ Nhị Luật chương 30 câu 11 tới 14.

 – Nếu muốn trích nhiều chương thì để một gạch nối giữa các chương. Thí dụ Xh 3-5; 6-13 có nghĩa là sách Xuất Hành chương 3 tới chương 5 và chương 6 tới chương 13.

 – Nếu muốn trích dẫn nhiều câu khác nhau trong cùng một chương, thì để gạch nối giữa các câu liền nhau, và để một chấm cho câu tiếp theo. Thí dụ Tv 37,1-2.8-10.12.14 có nghĩa là Thánh vịnh 37 các câu 1 tới 2, 8 tới 10, và các câu 12 và 14.

 – Nếu muốn trích dẫn một văn bản với các câu chính xác gồm nhiều chương khác nhau thì để một gạch ở giữa. Thí dụ Is 52,13-53,12 có nghĩa là sách ngôn sứ Isaia chương 52 câu 13 cho tới chương 53 câu 12.

 – Nếu muốn trích một văn bản với các câu tiếp theo thì viết tt. Thí dụ St 2,4-6.8; 3,5 tt.; 4,1-6,8 có nghĩa là sách Sáng Thế chương 2 các câu từ 4 tới 6, câu 8; chương 3 câu 5 và tiếp theo; chương 4 câu 1 tới chương 6 câu 8.

  II. DANH SÁCH CÁC TÁC PHẨM KINH THÁNH, NỘI DUNG VÀ THỜI GIAN BIÊN SOẠN

  Sau đây là danh sách theo các ấn bản Thánh Kinh Công Giáo. Tuy chưa phải là danh sách lý tưởng chính xác, nhưng để cho thống nhất, tên các sách và kiểu viết tắt được lấy theo bản dịch Kinh Thánh Trọn Bộ Cựu Ước và Tân Ước của Nhóm phiên dịch các Giờ Kinh Phụng Vụ.

  1. Thánh Kinh Cựu Ước

 1) Ngũ Thư hay Ngũ Kinh:

  1/ Sáng Thế (St): bao gồm các trình thuật tiền lịch sử tạo dựng vũ trụ và loài người và lịch sử các tổ phụ từ đầu cho tới khoảng năm 1.700 trước công nguyên.

 2/ Xuất Hành (Xh): gồm các trình thật cuộc giải phóng dân Israel khỏi Ai Cập và các luật lệ khoảng năm 1.250 trước công nguyên.

 3/ Lêvi (Lv): thu thập các luật lệ hướng đẫn cuộc sống của dân Israel

 4/ Dân Số (Ds): gồm các trình thuật lịch sử và luật lệ các thuộc các năm 1.250-1.200 trước công nguyên.

 5/ Đệ Nhị Luật (Đnl): gồm các luật lệ giao thoa với lịch sử.

 Bộ Ngữ thư bao gồm chất liệu do 4 truyền thống Giavít, Êlôhít, Đệ Nhị Luật và Tư Tế biên soạn trong các thế kỷ IX-V trước công nguyên. Bốn truyền thống này được viết tắt là: J, E, D, P (Priestercodex).

  2) Các sách Sử Ký:

  1/ Giôsuê (Gs): kể lại cuộc đánh chiếm Đất Hứa Canaan năm 1.200 trước công nguyên.

2/ Thủ Lãnh (Tl): kể lại cuộc định cư trong đất Canaan giữa các năm 1.200-1.000. Lần biên soạn cuối cùng trong các thế kỷ VI-IV trước công nguyên.

 3) Rút (R): chuyện bình dân

 4/ Samuel I (1 Sm): kể lại lịch sử của thủ lãnh và ngôn sứ Samuel, khởi đầu chế độ quân chủ với vua Saul năm 1.050 trước công nguyên.

 5/ Samuel II (2 Sm): các trình thuật đời vua Đavít năm 1.000 trước công nguyên. Nhân tố quan trọng nhất thuộc thế kỷ X, nhưng việc biên soạn cuối cùng thuộc thế kỷ VI trước công nguyên.

 6/ Các Vua I (1 V): trình thuật cuộc đời vua Salomon và các vua kế vị.

 7/ Các Vua II (2 V): trình thuật lịch sử các vua của vương quốc Israel miền Bắc và vương quốc Giuđa miền Nam cho tới thời lưu đầy, tức các năm 930-587 trước công nguyên. Chúng được biên soạn hồi thế kỷ VI, nhưng dùng các tài liệu cổ xưa hơn.

 8/ Sử Biên I-II (1 Sb; 2 Sb): bao gồm lịch sử từ thời Ađam cho tới sắc lệnh Vua Ciro ký năm 538 trước công nguyên cho phép dân Israel bị đầy bên Babilonia hồi hương. Chúng được biên soạn trong các thế kỷ V-IV trước công nguyên.

 9/ Étra (Er): trình thuật biến cố hồi hương từ Babilonia, năm 530.

 10/ Nơkhêmia (Nk): trình thuật việc tái thiết thành Giêrusalem và Đền Thờ sau khi dân Israel hồi hương (537-398 trước công nguyên). Chúng được biên soạn trong các thế kỷ V-IV trước công nguyên.

 11/ Tôbia (Tb): chuyện bình dân

 12/ Giuđitha (Gd): chuyện bình dân

 13/ Étte (Et): tiểu thuyết lich sử, được biên soạn giữa các thế kỷ IV-II trước công nguyên.

 14/ Macabê I-II (1 Mcb; 2 Mcb): trình thuật chiến tranh giành độc lập do nhà Macabê khởi xướng và lãnh đạo (các năm 175-134; 180-160) được biên soạn giữa các năm 135-63 trước công nguyên.

  3) Các sách Khôn Ngoan và Thơ Phú:

  1/ Gióp (G): đề cập tới vấn đề khổ đau của người công chính, được biên soạn hồi thế kỷ thứ V trước công nguyên.

 2/ Các Thánh Vịnh (Tv): gồm 150 sáng tác thơ thuộc nhiều nguồn gốc khác nhau, một số rất cổ xưa, và việc biên soạn vĩnh viễn hoàn thành trước thế kỷ thứ IV trước công nguyên.

 3/ Châm Ngôn (Cn): đa số thuộc các thế kỷ VIII-VII trước công nguyên, nhưng một số được thêm vào sau này.

 4/ Giảng Viên (Gv): được biên soạn giữa các thế kỷ IV-III trước công nguyên.

 5/ Diễm Ca (Dc): thi ca trữ tình thuộc thế kỷ V-IV trước công nguyên.

 6/ Khôn Ngoan (Kn): do một tín hữu do thái biên soạn tại Alessandria bên Ai Cập khoảng năm 50 trước công nguyên.

 7/ Huấn Ca (Hc): của ông Giêsu con Sirak biên soạn vào thế kỷ thứ II trước công nguyên.

  4) Các Sách Ngôn Sứ

  1/ Isaia (Is): phần I (các chương 1-39) của ngôn sứ Isaia thuộc thế kỷ thứ VIII trước công nguyên; phần II (các chương 40-55) và phần III (các chương 56-66) là của các môn sinh thuộc các thế kỷ VI-V trước công nguyên.

2/ Giêrêmia (Gr): phần nòng cốt thuộc ngôn sứ Giêrêmia hoạt động từ năm 602 tới sau 587 trước công nguyên và được biên soạn trong các thế kỷ VII-VI trước công nguyên.

 3/ Ai Ca (Ac): thuộc thế kỷ thứ VI trước công nguyên.

 4/ Barúc (Br): thuộc thế kỷ thứ VI trước công nguyên.

 5/ Êdêkien (Ed): phần lớn do ngôn sứ biên soạn vào thế kỷ thứ VI trước công nguyên.

 6/ Đanien (Đn): gồm hai phần được biên soạn vào hai thế kỷ III-II trước công nguyên.

 7/ Hôsê (Hs): thi hành sứ vụ và biên soạn giữa các năm 750-725 trước công nguyên.

 8/ Giôen (Ge): thuộc thế kỷ thứ V trước công nguyên

 9/ Amốt (Am): thuộc thế kỷ thứ VIII trước công nguyên.

 10/ Ôvađia (Ov): sách ngắn nhất của Thánh Kinh Cựu Ước, thuộc thế kỷ VI trước công nguyên.

 11/ Giôna (Gn): biên soạn giữa các thế kỷ V-III trước công nguyên.

 12/ Mikha (Mk): thuộc thế kỷ thứ VIII trước công nguyên.

 13/ Nahum (Nh): thuộc thế kỷ VII-VI trước công nguyên.

 14/ Khabacúc (Hb): thuộc thế kỷ VII-VI trước công nguyên.

 15/ Xôphônia (Xp): hoạt động và biên soạn sách vào thế kỷ thứ VII trước công nguyên.

 16/ Khácgai (Kg): thuộc thế kỷ VI-V trước công nguyên  

 17/ Dacaria (Dc): phần I (các chương 1-8) thuộc thế kỷ thứ VI trước công nguyên; phần II (các chương 9-14) thuộc thế kỷ thứ V trước công nguyên.

 18/ Malakhi (Ml): thuộc thế kỷ thứ V trước công nguyên.

  2. Thánh Kinh Tân Ước

 1) Gồm 4 Phúc Âm

  Ba Phúc Âm đầu tiên gọi là Nhất Lãm, vì có cùng cách sắp xếp lịch sử cuộc đời Chúa Giêsu, được biên soạn giữa các năm 43-70. Thánh sử Luca là tác giả của Phúc Âm và sách Công Vụ Tông Đồ.

 1/ Mátthêu (Mt)

2/ Máccô (Mc)

3/ Luca (Lc)

4/ Gioan (Ga) được biên soạn giữa các năm 90-100.

  2) Công Vụ Tông Đồ (Cv) được biên soạn giữa các năm 63-70 và 80-90.

 3) 13 thư của thánh Phaolô được viết giữa các năm 57-70 gồm các thư gửi gín hữu các giáo đoàn: Roma (Rm); 1 Côrintô (1 Cr); 2 Côrintô (2 Cr); Galát (Gl); Êphêxô (Ep); Philiphê (Pl); Côlôxê (Cl; 1 Thêxalônica (1 Tx); 2 Thêxalônica (2 Tx); 1 Timôthê (1 Tm); 2 Timôthê (2 Tm); Titô (Tt); Philêmôn (Plm); Do thái (Dt).

 Thư gửi tín hữu Do thái hay Diễn từ về chức Linh Mục của Chúa Giêsu được biên soạn sau này, nhưng được gán cho thánh Phaolô.

 4) Thư thánh Giacôbê (Gc)

5) Hai thư của thánh Phêrô: 1 Phêrô (1 Pr), 2 Phêrô (2 Pr)

6) Ba thư của thánh Gioan: 1 Gioan (1 Ga); 2 Gioan (2 Ga); 3 Gioan (3 Ga).

7) Thư Giuđa (Gđ)

8) Khải Huyền (Kh).

  3. Danh sách Thánh Kinh Cựu Ước, Bản Dịch Đại Kết (TOB)

  Có kiểu sắp xếp theo Thánh Kinh Do thái gồm 4 nhóm:

 1) Ngũ Thư

2) Các Ngôn Sứ:

     – 1/ Các Ngôn Sứ trước:

     – 2/ Các Ngôn Sứ sau:

 3) Các Sách khác

 4) Các sách ”Deuterocanonici” hay ”apofrifi”, tức 7 tác phẩm được biên soạn bằng tiếng hy lạp: Giuđitha, Tobia,, 1 Macabê, 2 Macabê, Khôn Ngoan, Huấn Ca, Baruc và thư của Giêrêmia.

 Để đầy đủ phải thêm vài đoạn bằng tiếng hy lạp của sách Đanien và sách Étte.

  III. MỘT VÀI DANH SÁCH THÁNH KINH KHÁC

 1. Thánh Kinh Samaritano

  Cộng đoàn tín hữu do thái ly khai sống tại Samaria thủ đô vương quốc Israel miền Bắc chỉ chấp nhận phần I của Thánh Kinh Do thái, tức Ngũ Thư gồm 5 cuốn đầu tiên của Thánh Kinh Cựu Ước, cộng thêm sách Giôsuê. Đôi khi Thánh Kinh Samaritano cũng được gọi là ”Esateuco samaritano” tiếng hy lạp có nghĩa là ”6 hộp” đựng các cuộn sách viết trên giấy làm bằng da thuộc, hay ”Pentateuco samaritanio” ”5 hộp”. Ngoài số sách hạn chế Thánh Kinh Samaritano còn có 2.000 chỗ dịch khác nhau.

  2. Thánh Kinh Chính Thống

  Các Giáo Hội Chính Thống theo danh sách Thánh Kinh Hy Lạp Bẩy Mươi, được dịch tại Alessandria bên Ai Cập giữa các thế kỷ III-I trước công nguyên. Thứ tự các sách khác với Thánh Kinh Do thái.

 Trong Công Nghị nhóm tại Giêrusalem năm 1672 các Giáo Hội chính thống vĩnh viễn chấp nhận danh sách Thánh Kinh Cựu Ước sau đây, trong khi danh sách Thánh Kinh Tân Ước giống danh sách của Giáo Hội công giáo và các Cộng Đoàn Kitô khác.

  1) Pentáteukhos (Ngũ Thư):

  Ghenesis (Sáng Thế); Hexodos (Xuất Hành); Levitikon (Lêvi); Arithmoi (Dân Số); Deuteronómion (Đệ Nhị Luật).

  2) Istoriká (Sách Sử Ký):

  Iesus tou Navé (Giosuê Ngôn Sứ); Kritai (Thủ Lãnh); Ruth; A Samuel hay Basiléon A (1 Basiléon = Vua 1 = 1 Samuel 1); B Samuel hay Basiléon B (2 Basiléon = Vua 2 = Samuel 2) A Basiléon hay Basiléon Gamma (3 Basiléon = Vua 3 = 1 Vua); B Basiléon hay Basiléon Delta (4 Basiléon = Vua 4 = 2 Vua); A Kronikón hay Paraleipoménon A (1 Paraleipoménon = Các điều được thêm vào = Sử Biên 2); B Kronikòn hay Paraleipoménon B (2 Paraleipoménon = Các điều được thêm vào = Sử Biên 2); A Esdras ( 1 Esdras = Esdra hy lap); B Esdras (2 Esdras = Esdra); Neemías; Esther với các phần thêm; Iudith (Giuditha); Tobít; Makkabáion A (1 Macabê); Makkabáion B (2 Macabê); Makkabáion Gamma (3 Macabê); Makkabáion Delta (4 Macabê).

 Khi đọc một số các sách cũ, chúng ta có thể gặp các trích dẫn theo Kinh Thánh Hy Lạp Bẩy Mươi trên đây: I-II-III-IV Vua; I-II Étra; I-II-III-IV Macabê.

  3) Poietiká (Các Sách Thơ):

  Psalmoi (Các Thánh Vịnh + Tv 151); Odài (Các Thánh Thi); Paroimíai (Châm Ngôn); Ekklesiastes (Ecclesiates : người tụ họp = Giảng Viên hay Qohelet); Asma Asmatón (Diễm Ca); Iob; Sofia Solomóntos (Sự Khôn Ngoan của Salomon); Sofia Seirach (Sự Khôn Ngoan của Sirach = Huấn Ca hay Ben Sira); Psalmòi Solomòntos (Các Thánh Vịnh của Salomon)

  4) Profetikà (Các Ngôn Sứ):

  – Mikroi profétes (Các Ngôn Sứ Nhỏ):

 Oseé; Amós; Michaías; Ioel; Obdiú; Ionas; Naúm; Abbakùm; Sofonìas; Aggaíos; Zakarías; Malachías;

 – Megàloi profétes (Các Ngôn Sứ Lớn):

 Esaias; Ieremías; Barúch; Thrénoi (Ai Ca); Epistolé Ieremíou (Thư Giêrêmia); Iezekiél; Sosànna (Susanna); Danièl bao gồm Proseuches tou Azarìa (Lời cầu của Azaria), Ton triòn paìdon aìnesis (Thánh thi của ba người trẻ); Bel kai dràgon (Bel và con rồng).

 So sánh với danh sách Thánh Kinh Chính thống, Thánh Kinh Công giáo không có các tác phẩm: Các Thánh Thi, Các Thánh Vịnh Salomon; sách Étra 1, Macabê 3, Macabê 4.

  3. Thánh Kinh Tin Lành

  Vào thế kỷ XVI Martin Luther, cha đẻ của phong trào cải cách, cũng đặt vấn nạn liên quan tới các Sách Thánh. Cho tới thời đó, Kitô giáo tây phương đã thừa nhận 73 tác phẩm như được liệt kê trong Bản Vulgata tiếng Latinh, dựa trên sự chỉ dẫn uy tín của Đức Giáo Hoàng Damaso I năm 382 và được Công Đồng Firenze tái khẳng định năm 1442.

 Trong bối cảnh việc phản đối các ân xá có được nhờ các việc bác ái, nhất là dâng cúng tiền bạc với ý chỉ cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện tội mau lên thiên đàng, Martin Luther coi thư của thánh Giacôbê, đặc biệt Gc 2,14-26, đề cao các việc lành phúc đức trong cuộc sống kitô, là không được linh hứng và xếp nó vào loại ”apocrifo”.

 Martin Luther cũng phê bình một vài văn bản của các sách ”deuterocanonici” đề cao tầm quan trọng của lời cầu nguyện và các việc bác ái đối với các người đã qua đời, mà truyền thống công giáo coi là nền tảng của giáo lý ân xá, đặc biệt là các văn bản: 2 Mcb 12,43-45; Tb 4,7-12; 14,10-11; Hc 3,30; 35,2.

 Martin Luther công nhận 39 tác phẩm của Thánh Kinh Cựu Ước Do thái trong bản dịch tiếng đức theo thứ tự của Bản vulgata. Trong Thánh Kinh Tân Ước ông coi thư Giacôbê, thư Giuđa, thư Do thái, sách Khải Huyền là các tác phẩm ”apocrifi” và xếp chúng vào cuối.

 Trong các thế kỷ sau đó, có hai trào lưu trong thế giới tin lành. Trào lưu Luther và Anh giáo tiếp tục duy trì các tác phẩm bị Luther coi là không hợp quy (non canonici), và trình bầy 7 tác phẩm ”deuterocanonici” vào phần cuối, nhưng lại coi thư Giacôbê, thư Giuđa, thư Do thái và sách Khải Huyền là các tác phẩm hợp quy.

 Tất cả các cộng đoàn tin lành khác chỉ coi 66 tác phẩm là hợp quy, và chỉ loại trừ 7 tác phẩm ”deuterocanonici” mà thôi.

  4. Danh sách Thánh Kinh Copte

  Thánh Kinh Etiopica bao gồm danh sách của Bản Dịch Hy Lạp Bẩy Mươi, cộng thêm vài tác phẩm bị các cộng đoàn kitô khác coi là ”apocrifi” như: Sách Giubilê, Sách Ênốc, 1 Macabê, 2 Macabê, 3 Macabê.

 Trong Thánh Kinh Tân Ước thì có thêm: hai thư I-II Clêmentê.

  5. Danh sách Thánh Kinh Siriac

  Bản dịch Thánh Kinh tiêng siriac gọi là Bản ”Peshitta” là bản Thánh Kinh chính thức của các Giáo Hội Siri.

 – Thánh Kinh Cựu Ước gồm vài văn bản ”apocrifi” như: Thánh vịnh 151; các Thánh Vịnh 152-155; sách Barúc 2.

 – Thánh Kinh Tân Ước thuộc thế kỷ thứ V chỉ có 22 tác phẩm thay vì 27, vì thiếu thư Phêrô 2, thư Gioan 2, 3; thư Giuđa, sách Khải Huyền.

 – Từ các thế kỷ VI-VII trở đi các ấn bản tân ước có đủ 27 tác phẩm. Nhưng Thánh Kinh Tân Ước gồm 22 tác phẩm vẫn tiếp tục được dùng bởi vài cộng đoàn siri bên Ấn Độ như:

  – Giáo Hội chính thống siro-malankara có trụ sở tại Kottayam trong bang Kerala;  

– Giáo Hội công giáo Siro-malabar có trụ sở tại Trichur trong bang Kerala.

  6. Danh sách Thánh Kinh Armeni

  Giáo Hội Tông Truyền Armeni có các nghi ngờ, khi đưa ”Di chúc của Mười Hai Tổ Phụ” vào danh sách các tác phẩm Thánh Kinh Cựu Ước. Liên quan tới Thánh Kinh Tân Ước họ nghi ngờ việc đưa thư Côrintô 3 và sách Khải Huyền vào danh sách.

  LM Giuse Linh Tiến Khải


by Tháng Mười Hai 9, 2012 Comments are Disabled chưa phân loại, Thánh Kinh Cựu Ước
Lịch sử hình thành Thánh kinh Tân Ước

Lịch sử hình thành Thánh kinh Tân Ước

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/12/lich-su-hinh-thanh-tan-uoc.jpg

       Nếu Thánh Kinh Cựu Ước đã mất mười thế kỷ để hoàn thành, thì Thánh Kinh Tân Ước đã chỉ được biên soạn trong khoảng một trăm năm và bao gồm 27 tác phẩm.

  1. Danh sách các tác phẩm tân ước

      Trước hết là 4 Phúc Âm của các thánh sử Mátthêu, Mạccô, Luca và Gioan kể lại cuộc đời Chúa Giêsu Kitô từ khi giáng sinh cho tới khi về Trời, cũng như các giáo huấn và các phép lạ Người làm trong ba năm rao giảng Tin Mừng. Thứ đến là sách Công Vụ các Tông Đồ, do thánh Luca biên soạn kể lại lich sử Giáo Hội thời khai sinh với hai gương mặt nổi bật của Tông Đồ Phêrô và Tông Đồ Phaolô. Rồi tới 14 thư của thánh Phaolô, kể cả thư gửi giáo đoàn Do thái được gán cho thánh nhân. Thực ra đây là Diễn từ về chức linh mục của Chúa Giêsu Kitô do một tác gia vô danh sáng tác. Các thư thường được sắp xếp thành ba nhóm sau đây: nhóm thư nhất là các thư lớn gồm thư gửi giáo đoàn Roma (Rm), hai thư gửi giáo đoàn Côrintô (1-2 Cr), thư gửi giáo đoàn Galát (Gl), hai thư gửi giáo đoàn Thêxalônica (1-2 Tx); nhóm thứ hai là các thư viết trong tù gồm thư gửi giáo đoàn Philiphê (Pl), thư gửi giáo đoàn Côlôxê (Cl), thư gửi Philêmôn (Plm) và thư gửi giáo đoàn Êphêxô (Ep); nhóm thứ ba gồm các thư mục vụ liên quan tới kỷ luật trong cuộc sống cộng đoàn gồm hai thư gửi cho Timôthê (1-2 Tm) và thư gửi cho Titô (Tt).

        Các thư khác trong Thánh Kinh Tân ước gồm thư thánh Giacôbê (Gc), hai thư của thánh Phêrô (1-2 Pr), ba thư của thánh Gioan (1-3 Ga), thư của thánh Giuđa (Gđ). Tác phẩm sau cùng của Thánh Kinh Tân Ước là sách Khải Huyền (Kh).

  2. Tiến trình và thời gian biên soạn

        Nói chung giới học giả kinh thánh đều đồng ý cho rằng các tác phẩm tân ước đã thành hình trong vòng 100 năm. Riêng đối với các Phúc Âm, “eu-anghelion” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là ”lời loan báo vui”, ”tin vui”, ”tin mừng” liên quan tới nội dung sứ điệp, là sự phục sinh của Chúa Kitô, tiến trình này gồm ba giai đoạn.

       Giai đoạn một là chứng tá của các Tông Đồ và các môn đệ thuộc thế hệ thứ nhất, tức thế hệ những người tai đã từng được lắng nghe các lời Chúa Giêsu giảng dậy và mắt đã từng trông thấy các phép lạ Chúa Giêsu đã làm. Truyền thống chung quanh Đức Giêsu Kitô đã bắt đầu ngay trong giai đoạn này, nghĩa là trước biến cố phục sinh. Đây cũng là điều đễ hiểu, vì các Tông Đồ và các môn đệ lập lại các giáo huấn của Chúa Giêsu và kể lại những gì mắt thấy tai nghe cho những ai chưa biết Người. Sau khi Chúa Kitô về Trời, các Tông Đồ và các môn đệ truyền lại cho tín hữu các giáo huấn ấy một cách trung thực, nhưng với sự hiểu biết sâu xa hơn, nhờ được Chúa Kitô phục sinh và Thánh Thần chân lý soi sáng. Nhưng để trung thực hơn, phải nói rằng ngay khi Chúa Giêsu rao giảng cũng đã có người tìm cách ghi chép lại các giáo huấn của Chúa, nếu không đầy đủ thì một cách tóm gọn, để sử dụng và kể lại cho những người khác khi cần. Vì vậy chúng ta không nên ngạc nhiên khi truyền thống viết đã manh nha ngay từ đầu.

        Giai đoạn hai là lời rao giảng của Giáo Hội. Mỗi Phúc Âm trước khi được ghi chép thành văn bản, đã có truyền thống chuyền miệng riêng, vì đã được rao giảng lâu trước đó. Truyền thống này không phải chỉ là truyền thống tông đồ, mà cũng là truyền thống của Giáo Hội nữa. Nó không chỉ do Giáo Hội làm và được làm trong Giáo Hội, mà nhất là được làm cho Giáo Hội. Nghĩa là các nhu cầu khiến cho cộng đoàn làm một việc lựa chọn, nhấn mạnh, và tổ chức các dữ kiện có được liên quan tới Chúa Giêsu Kitô, các giáo huấn và các việc Người làm. Như thế, thật là dễ hiểu bên cạnh các nhu cầu của Giáo Hội nói chung, còn có các nhu cầu của các giáo đoàn riêng rẽ nữa. Do đó, bên trong truyền thống chung có các truyền thống đặc biệt hay địa phương. Cả các truyền thống địa phương này cũng có thể được quy tụ lại, và như vậy đã nhào nặn ra cấu trúc của Phúc Âm. Trong số các nhu cầu đó có viêc truyền giáo, dậy giáo lý, phụng tự, hộ giáo, ước muốn hiểu biết và nhớ lại các lời nói và việc làm của Chúa Giêsu. Ngoài ra còn có việc chú ý tới lịch sử cuộc đời Chúa Giêsu Kitô nữa, vì hai lý do. Thứ nhất là nhu cầu cho các tín hữu thấy gương sống của Chúa Giêsu, và thứ hai là cho họ thấy Con Thiên Chúa đã tự đồng hóa với loài người như thế nào.

        Chúng ta cũng có thể hỏi việc đâm rễ sâu ấy nơi truyền thống liên quan tới Chúa Giêsu gây ra các hiệu qủa nào trong Giáo Hội thời các tông đồ. Theo học giả A. Voegtle nó có ba hiệu qủa: trước hết là sự kiện các kỷ niệm về Đức Giêsu phải phụ vụ cuộc sống Giáo Hội cống hiến một nguyện tắc lựa lọc trong đống các kỷ niệm. Thứ hai là sự kiện sử dụng các cử chỉ và lời nói của Đức Giêsu cho cuộc sống của các tín hữu miễn trừ sự bắt buộc phải đóng khung trong một bối cảnh thời gian chính xác cảc kỷ niệm trong khung cảnh cuộc sống của Đức Giêsu. Và sau cùng các nhu cầu của cộng đoàn cống hiến một nguyên tắc thời sự hóa các kỷ niệm ấy: nhớ lại điều Chúa Giêsu đã làm và nói không đủ, mà cần phải thời sự hóa nó nữa.

        Giới học giả kinh thánh thường cho rằng Phúc Âm thánh Mạccô được biên soạn giữa các năm 65-80, Phúc Âm thánh Mátthêu sau năm 70, Phúc Âm thánh Luca giữa các năm 80-90, và Phúc Âm thánh Gioan giữa các năm 95-110. Tuy nhiên, nhiều học giả nghĩ rằng vài thập niên trước đó truyền thống liên quan tới cuộc đời Chúa Giêsu đã được truyền miệng, hay qua các nguồn tài liệu viết đã bị thất lạc, chắng hạn như nguồn tài liệu gọi là ”Q” từ tiếng Đức ”Quelle”, có nghĩa là nguồn.

        Dựa trên sự kiện sách Công Vụ các Tông Đồ kết thúc một cách bất thình lình với sự kiện thánh Phaolô bị bỏ tù khoảng năm 62 cũng có giả thuyết cho rằng các văn bản Phúc Âm đã được biên soạn ra trước đó nữa. Theo trường phái kinh thánh Madrid, khi thánh Phaolô viết thư thứ II gửi tín hữu Côrintô giữa các năm 54-57 thánh Luca đã biên soạn Phúc Âm rồi và nó lưu hành trong ”tất cả mọi Giáo Hội”. Điều này bao hàm sự kiện một bản dịch tiếng Hy lạp của các nguồn tài liệu mà thánh Luca dùng để biện soạn Phúc Âm, trong đó có Phúc Âm thánh Mạccô đã lưu hành trong thập niên 40-50. Kết qủa là nếu càc nguồn tài liêu này đã lưu hành trong các cộng đoàn kitộ tiên khởi trong thập niêm 40-50, thì chúng đã phải được biên soạn ra trong thập niên 30-40, nghĩa là rất sớm hầu như ngay sau cái chết của Chúa Giêsu. Việc xác định thời gian biên soạn rất sớm này cũng dựa trên việc nhận diện các mảnh thủ bản Papiro 7Q4 và 7Q5, tức hai mảnh văn bản tìm thấy trong hang số 4 và hang số 5 tại Qumran gần Biển Chết. Các người Esseniêng đã cất dấu rất nhiều thủ bản kinh thánh và các tài liệu của cộng đoàn trong 11 hang núi đối diện với làng Qumran nơi họ sinh sống, trước khi quân Roma bao vây và đánh chiếm pháo đài Massada ở gần đó năm 70. Các chữ tìm thấy trên hai mảnh văn bản này liên quan tới văn bản Phúc Âm thánh Mạccô và thuộc. Nếu chấp nhận việc nhận diện này thì Phúc Âm thánh Mạccô đã được biên soạn ra trước năm 50. Như đã biết thánh sử Mạccô là thư ký và thông dịch viên của thánh Phêrô đã ghi lại các bài giảng của thánh Phêrô theo giọng văn nói. Trường phái Madrid cũng cho rằng các Phúc Âm đã được biên soạn bằng tiếng Aramây trong môi trường cộng đoàn kitô Giêrusalem, bị phân tán trước năm 70. Học giả Jean Carmignac cho rằng Phúc Âm thánh Mạccô được biên soạn giữa các năm 42-45, tức khoảng mươi năm sau khi Chúa Giêsu chết, sống lại và lên trời.

        Thánh Phaolô viết hai thư gửi tín hữu Thêxalônica năm 51 tại Côrintô, nơi thánh nhân sống từ mùa đông năm 50 tới mùa hè năm 52. Người viết hai thư gửi gửi tín hữu Côrintô và thư gửi tín hữu Galát giữa các năm 54-57 tại Êphêxô, nơi thánh nhân sống trong hai năm ba tháng. Thư gửi tín hữu Roma và Philiphê được viết giữa hai năm 57-58 tại Côrintô, nơi thánh nhân qua mùa đông. Năm 58 thánh Phaolô bị bắt tại Giêrusalem và bị nhốt tù tại Cesarea trong các năm 58-60. Năm 60 thánh nhân được giải về Roma và bị đắm tầu tại đảo Malta trong mùa đông. Trong thời gian bị quản thúc tại Roma giữa các năm 61-63 người viết các thư gửi tín hữu các giáo đoàn Colôxê, Êphêxô, và thư gửi Philêmôn. Các thư gửi Titô và hai thư gửi Tomôthê được viết khoảng năm 65.

        Hai thư của thánh Phêrô được viết khoảng năm 64. Thư gửi tín hữu Do thái được biên soạn khoảng năm 70. Thư thánh Giacôbê được biên soạn khoảng năm 80, thư thánh Giuđa được viết ra khoảng năm 85. Ba thư của thánh Gioan được viết vào khoảng năm 90. Và sách Khải huyền được biên soạn sau năm 95.

         Ngoài một số thời điểm chính xác có thể kiểm chứng, các thời gian biên soạn trên đây vẫn chỉ là các dự đoán, vì không có đủ các dữ kiện cần thiết giúp chứng minh một cách xác thực hơn. Thực ra cho tới nay một số thời điểm của việc biên soạn nhiều tác phẩm của Thánh Kinh Tân Ước vẫn còn là vấn đề bỏ ngỏ cho việc nghiên cứu của các học giả.

  3. Công viêc của các thánh sử

         Sau cùng mỗi Phúc Âm là tác phẩm của một thánh sử. Các thánh sử tỏ ra tôn trọng việc rao giảng đi trước. Tác giả Phúc Âm không như là một nhân chứng bỏ qua việc rao giảng của Giáo Hội đi trước tác phẩm của mình, mà quy chiếu trực tiếp về các kỷ niệm. Thánh sử viết Phúc Âm nhân danh Giáo Hội và vì nhu cầu của Giáo Hội.

        Tuy nhiên, việc tôn trọng truyền thống ấy không ngăn cản mỗi tác giả theo đuổi một công việc biên soạn với nhãn quan thần học riêng của mình. Có các lý lẽ để nói rằng mỗi tác giả phúc âm khai triển một nền thần học riêng, hay có một nhãn quan thần học riêng, có các chủ ý riêng và để đáp ứng các nhu cầu của cộng đoàn tín hữu.

        Sự khác biệt viễn tượng giữa một Phúc Âm với một Phúc Âm khác không chỉ được nhận ra trong các trình thuật riêng rẽ, mà nhất là trong tổng thể và kết cấu chung của mỗi Phúc Âm. Điển hình như phẫn dẫn nhập Phúc Âm thánh Luca 1,1-4.

        Trong mấy câu mở đầu thánh sử Luca miêu tả một cách rõ ràng hành trình của truyền thống, từ các nhân chứng đầu tiên cho tới Phúc Âm thánh nhân biên soạn.

       – Trước hết là ”Những người ngay từ đầu đã được chứng kiến và đã phục vụ lời Chúa”: Truyền thống khởi hành từ các nhân chứng đã mắt thấy tai nghe những điều Chúa Giêsu Kitô làm và nói, nghĩa là đã chứng kiến các sư kiện đã xảy ra ”giữa chúng ta”, các biến cố thật. Các chứng nhân này đươc miêu tả như là các người phục vụ Lời Chúa. Điều này có nghĩa trước hết rằng nhiệm vụ của họ là vâng phục Lời Chúa, chứ không phản bội nó. Nhiệm vụ của họ là thông truyền lại một cách trung thực, với ý thức trách nhiệm cao. Việc tôn trọng truyền thống này rất sống động trong cộng đoàn kitô tiên khởi. Nhưng nó cũng có nghĩa là các chứng nhân đó dấn thân trong các diễn văn họ nói: họ là các môn đệ của Chúa Giêsu, chứ không phải là các người trung lập. Họ phải thông truyền và sống Lời Chúa.

       – Giai đoạn thứ hai ”Nhiều người đã ra công soạn bản tường thuật các biến cố đã được thực hiện giữa chúng ta”.

        Chúng ta đang ở mức độ hai của truyền thống. Không phải chỉ có các nhân chứng tai nghe mắt thấy, mà ”nhiều người”. Người ta không hạn chế ở việc thông truyền bằng miệng nữa. Truyền thống miệng giờ đầy được viết ra thành văn bản trong các tác phẩm đầu tiên. Có nhiều cố gắng khác nhau và chúng có tính cách vụn vặt.

       – Giai đoạn thứ ba: ”Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra”.

        Giai đoạn ba này là giai đoạn biên soạn phúc âm. Câu trên đây của thánh Luca cho thấy rõ sự lo lắng trung thành với nguồn gốc, cả khi đó không phải là một sự trung thành ”theo thứ tự thời gian” mà thánh nhân tìm kiếm, nhưng là một sư trung thành sâu xa hơn. Toàn Phúc Âm của thánh nhân chứng minh cho điều đó.

  4. Từ các Phúc Âm tới Đức Giêsu

        Trên đây là cuộc du hành của truyền thống đi từ Đức Giêsu tới các Phúc Âm. Nhưng chúng ta muốn làm một chuyến du hành ngược chiều: khởi hành từ các văn bản Phúc Âm hiện có, để từ từ đi ngược lên, qua từng lớp một, cho tới ngọn nguồn.

        Đây là một công việc khó khăn, phức tạp, không thể phân tích ở đây. Chỉ cần trả lời một câu hỏi thôi: đâu là các tiêu chuẩn giúp có thể đi qúa các văn bản, và qua cả giai đoạn truyền khẩu giả thiết lến cho tới Đức Giêsu?

        Có nhiều tác giả khác nhau đã tìm đưa ra các tiêu chuẩn cho phép vượt qúa các công thức đức tin của cộng đoàn kitô tiên khởi, và lên cho tới Đức Kitô của lịch sử. Chẳng hạn học giả Ignace. de la Potterie cho thấy bốn tiêu chuẩn xem ra có giá trị nhất và đươc ngành phê bình chấp nhận.

        – Thứ nhất là tiêu chuẩn của việc xác nhận nhiều, theo đó một dữ kiện tìm thấy trong tất cả hay hầu hết các nguồn phúc âm (tức nguồn Mạccô, nguồn Quelle, các nguồn đặc biệt của Mátthêu và Luca), và nói chung, trong các truyền thống của Tân Ước. Tuy nhiên tiêu chuẩn này qúa gắn liền với các nguồn tài liệu viết của các Phúc Âm, và hoàn toàn không biết tới giai đoạn truyền miệng trước đó. Nói cho cùng, một dữ kiện có thể được xác nhận trong nhiều văn bản không phải vì chúng nhất thiết phải lên cho tới Đức Giêsu, nhưng bởi vì nó có một nhiệm vụ quan trọng trong cộng đoàn kitô tiên khởi, và từ đó nó được ghi lại trong mọi mức độ của truyền thống tiếp theo. Như vậy tiêu chuẩn được xác nhận nhiều có giá trị của nó, nhưng để trở thành tiêu chuẩn chắc chắn cần phải có thêm các tiêu chuẩn khác nữa.

        – Thứ hai là tiêu chuẩn của sự không tiếp nối, theo đó cần phải coi là đích thật các dữ kiện của Phúc Âm (nhất là các lời Đức Giêsu nói) không thể giản lược vào các điều kiện của Do thái giáo cũng như các điều kiện sau này của Giáo Hội, đặc biệt trong các trường hợp, nơi truyền thống sau này đã khiến cho êm dịu hơn hay thay đổi các lời nói xem ra qúa táo bạo hoặc gây vấn đề.

        Tiêu chuẩn này hầu như được mọi học giả chấp thuận. Giá trị nền tảng của nó là điều không thể tranh luận. Tuy nhiên nó cũng qúa thu hẹp; vì dựa trên nó người ta chỉ coi là trung thực các cử chỉ ”độc đáo”, mới mẻ của Đức Giêsu, bẻ gẫy với qúa khứ. Nhưng hiển nhiên như thế là sai lầm, khi coi là không đích thật tất cả những gì trùng hợp với môi trường do thái hay vén mở cho thấy nó ích lợi cho các vấn đề của Giáo Hội sau đó. Dầu sao đi nữa, tiêu chuẩn này ích lợi vì giúp đưa ra ánh sáng tính cách độc đáo trong sứ điệp của Đức Giêsu. Chúng ta có thể nêu lên các thí dụ như: phép rửa của Đức Giêsu, các cám dỗ trong sa mạc, tương quan của Đức Giêsu với các môn đệ, kiểu Đức Giêsu thân thưa với Thiên Chúa Cha khi gọi Người là Abba Cha ơi vv…

      – Thứ ba là tiêu chuẩn của sự thích hợp, tiêu chuẩn này hệ tại việc xét xem một sự kiện của Phúc âm có tìm ra một ”Sitz im Leben”, tức có phù hợp với một môi trường chính xác trong cuộc sống của Đức Giêsu hay không. Trước hết là sự thích hợp với môi trường Palestina: tiếng nói, địa lý, tình trạng xã hội, chính trị, kinh tế, các khuynh hướng tôn giáo. Thứ hai là sự thích hợp với các đặc thái nền tảng sứ điệp của Đức Giêsu, sự độc đáo của nó, kiểu Đức Giêsu giải quyết các vấn đề và đưa ra các lập trường. Tiêu chuẩn này được dùng chẳng hạn như trong việc nghiên cứu các dụ ngôn, diễn văn trên núi, hay bài giảng Tám Mối Phúc Thật, kinh Lậy Cha.

      – Thứ tư là tiêu chuẩn liên quan tới các đặc thái chung của các lời nói và các hành động của Đức Giêsu. Tiêu chuẩn này cũng có thể xếp chung với tiêu chuẩn thứ ba. Nó nhằm minh nhiên các đặc tính nền tảng cung cách của Đức Giêsu, kiểu Người nói năng, làm các phép lạ, các tư tưởng thông thường của Người: sự hiện diện của các đặc tính này trong các văn bản khác trở thành chứng cớ sự trung thực của chúng.

  5. Một vài nét chính trong cuộc đời của Đức Giêsu

        Thứ tự thời gian cuộc đời Đức Giêsu vẫn còn được thảo luận, nhưng các thời điểm sau đây xem ra chắc chắn: Người sinh ra vào khoảng năm thứ 4 hay thứ 3 trước kỷ nguyên; năm 30 qua đời; năm 28 rời Nagiarét để bắt đầu rao giảng Tin Mừng. Đối với các đám đông dân chúng tại Galilea Đức Giêsu xuất hiện trước nhất như là một ngôn sứ của Nước Thiên Chúa, theo kiểu ông Gioan Tẩy Giả, mà vua Hêrốt Antipa đã nhốt tù. Tuy nhiên từ từ, khi Người thành lập một nhóm môn đệ, Đức Giêsu có các đặc tính của một Rabbi, một vị thầy của Do thái giáo, mặc dù Người đã không theo học trường của thầy nào và không cảm thấy gắn bó với các truyền thống được chấp nhận thời đó. Trước các giáo phái, đặc biệt là phái Pharisêu và phái Esseniêng, xem ra Người tuyệt đối độc lập. Ban đầu các lời giảng dậy và các phép lạ của Người gây hứng khởi, nhưng các Ký lục thuộc phái Pharisêu nghi ngờ không tin tưởng. Sự không tin tưởng của họ từ từ biến thành sự công khai thù ghét, và qua ảnh hưởng của họ bầu khí tại Galilea thay đổi. Đồng thời vua Hêrốt Antipa, người đã ra lệnh chém đầu Gioan Tẩy Giả, bắt đầu lo âu đối với hiện tượng cứu thế len lỏi giữa dân chúng.

        Sau một cuộc khủng hoảng như được cả bốn Phúc Âm ghi nhận, Đức Giêsu sống một thời gian trong vùng biên giới với quê hương của Người, sau cùng qua vùng Perea Người hướng về Giêrusalem. Tại Giêrusalem Người phải đối phó với sự chống đối của các tiến sĩ Luật giáo dân và các môi trường tư tế, pharisêu, và sađuxê. Ngay trước lễ Vươt Qua Người bị bắt, bị xử và kết án tử đóng đanh trên thập giá, sau một phiên tòa tôn giáo và dân sự. Ba Phúc Âm Nhất Lãm xem ra trình bầy cuộc mạo hiểm này chỉ trong vòng một năm và vài tháng. Trong khi Phúc Âm thánh Gioan cho tin liên quan tới nhiều chuyến đi Giêrusalem và nhắc lại ba lễ Vượt Qua, vì thế cuộc sống công khai của Chúa Giêsu kéo dài hơn hai năm. Và hai năm rao giảng và hoạt động này của Người đã đã đủ để thay đổi hoàn toàn gương mặt tôn giáo của toàn thế giới.

 LM Giuse Hoàng Minh Thắng


by Tháng Mười Hai 1, 2012 Comments are Disabled Thánh Kinh Tân Ước
Maria Valtorta 3

Maria Valtorta 3

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/08/TIN-MUNG-nhu-da-duoc-ven-mo-cho-Toi1.jpg

III. Các phản ứng, ý kiến và lập trường ủng hộ tích cực của một số nhân vật uy tín trong Giáo Hội đối với tác phẩm của bà Maria Valtorta

 1. Chân phước Linh Mục G.M. Allegra, dòng Phanxicô

       Giữa các năm 1968 và 1970 từ Macao cha đã đưa ra các nhận xét dài về tác phẩm của bà Maria Valtorta. Cha khẳng định rằng ”Bài Thơ được trình bầy với chúng ta như việc bổ túc cho bốn Phúc Âm và như là một giải thích chúng. Nữ tác giả là người minh giải các cảnh trong Phúc Âm”.

      ”Nói tóm gọn. Giáo Hội không cần tác phẩm này để thực thi sứ mệnh cứu rỗi của mình cho tới khi Chúa đến lần thứ hai, cũng như Giáo Hội đã không cần các vụ hiện ra của Đức Mẹ tại La Salette, Lộ Đức, Fatima… Nhưng Giáo Hội có thể, một cách ngấm ngầm hay công khai, thừa nhận rằng các mạc khải tư có thể ích lợi cho việc hiểu biết và thực thi Tin Mừng và có lợi cho việc hiểu các mầu nhiệm của nó và vì thế chấp nhận trong hình thức tiêu cực, bằng cách tuyên bố rằng các mạc khải đó không trái nghịch với đức tin, hay một cách chính thức có thể không biết đến các mạc khải ấy, và để cho con cái mình tự do xét đoán chúng.

       Trong hình thức tiêu cực đã được thừa nhận các mac khải của thánh nữ Brigida, thánh nữ Matilde, thánh nữ Gertrude, Đấng đáng kính E’Agreda, thánh Gioan Bosco và nhiều thánh nam nữ khác.

       Có sự cách biệt rất lớn khi so sánh ”Bài thơ của Con Người Thiên Chúa” với các tác phẩm khác như các ”Mạo thư của Thánh Kinh Tân Ước”, đặc biệt là các ”Mạo thư thời thơ ấu” và các ”Mạo thư của biến cố hồn xác lên trời”. Cả với các mạc khải của các vị đáng kính Emmerich hay D’Agreda vv… cũng có khoảng cách, vì trong các mạc khải tư này người ta cảm thấy có ảnh hướng của các người thứ ba. Đó tuyệt nhiên không phải là trường hợp tác phẩm ”Bài thơ của Con Người Thiên Chúa”. Lý do là vì giáo thuyết thần học, kinh thánh, địa lý, lịch sử, địa hình… rộng rãi và chắc chắn của nó. Các tiểu thuyết nổi tiếng như: ”Ben Hur”, ”Chiếc áo choàng”, ”Người ngư phủ vĩ đại”, ”Chén thánh bằng bạc”, ”Ngọn giáo”… cũng không tài nào sánh nổi với sự giao thoa giữa cái tự nhiên, tự phát, tuôn trào từ bối cảnh của các biến cố và tính tình của biết bao nhiêu nhân vật – cả một đám đông dân chúng đích thực – làm thành cái đà chính trong Bài thơ của Con Người Thiên Chúa.

       Ngoài ra tuy thông minh, có trí nhớ dai và sắc sảo, nhưng Maria Valtorta đã không học hết bậc trung cao học, lại bị nhiều thứ bệnh trong nhiều năm trời và nằm liệt giường. Trong phòng bà chỉ có vài cuốn sách trên kệ, và bà cũng đã không đọc bộ chú giải Thánh Kinh nào sở đĩ có thể biện minh hay giải thích nền văn hóa kinh thánh gây kinh ngạc. Bà đã chỉ sử dụng cuốn Thánh Kinh của cha Tintori, dòng Phanxicô, thế mà đã viết ra tác phẩm ”Bài thơ của Con Người Thiên Chúa” 10 cuốn chỉ trong vòng bốn năm, từ 1943 đến 1947…

       Tôi cho rằng tác phẩm của bà Maria Valtorta đòi hỏi một nguồn gốc siêu nhiên. Tôi nghĩ rằng nó là một sản phẩm của một hay nhiều đặc sủng và phải được nghiên cứu dưới ánh sáng của các đặc sủng, bằng cách sử dụng cả các đóng góp của các nghiên cứu tâm lý mới đây của các khoa học liên hệ…

      Chính các đặc sủng được Thần Khí-Giêsu rộng ban cho thiện ích của Giáo Hội, để xây dựng Thân Mình Chúa Kitô; và tôi không thấy làm sao có thể khước từ rằng ”Bài Thơ” xây dựng và yêu thương các con cái của Giáo Hội. Chắc chắn đức ái là con đường tuyệt vời nhất (1 Cr 13,1); người ta cũng đã biết rằng có vài đặc sủng đầy tràn trong Giáo Hội thời khai sinh, sau đó đã hiếm mất, nhưng người ta cũng chắc chắn rằng chúng đã không bao giờ hoàn toàn tắt lịm. Vì thế qua các thế kỷ Giáo Hội tiếp tục xem chúng có đến từ Thần Khí của Đức Giêsu hay là một ngụy trang của thần trí tối tăm, giả làm thiên thần ánh sáng: Hãy cân nhắc thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không (1 Ga 4,1).

       Giờ đây, không đi trước phán đoán của Giáo Hội, mà kể từ lúc này tôi chấp nhận với sự tuâm phục tuyệt đối, tôi cho phép mình khẳng định rằng, vì lời Chúa là tiêu chuẩn chính để phân định các thần khí: ”Từ các trái của chúng các con sẽ nhận biết chúng… ” (Mt 3,20), và vì ”Bài Thơ” đang sinh ra các trái tốt lành nơi một số ngày càng đông các độc giả, tôi nghĩ rằng nó đến từ Thần Khí của Đức Giêsu”.

 2. Linh Mục Gabriele M. Roschini, người sáng lập Phân khoa thần học tại Học viện Marianum, chuyên viên thánh mẫu học, tác giả của 130 cuốn sách, cố vấn Tòa Thánh

       Trong cuốn sách tựa đề ”Đức Trinh Nữ Maria trong tác phầm của bà Maria Valtorta” cha Roschini ghi nhận trong phần dẫn nhập như sau: ”Tôi phải đơn sơ chấp nhận rằng thánh mẫu học nổi lên từ các bút tích đã xuất bản và chưa xuất bản của Maria Valtorta, đối với tôi, đã là một khám phá thực sự. Không có một chất liệu nào khác, kể cả tổng thể của tất cả những gì tôi đã đọc và nghiên cứu, đã có thể cho tôi một ý tưởng rõ ràng, sống động, đầy đủ và sáng ngời đồng thời hấp dẫn, đơn sơ và cao cả như vậy về Đức Maria, tuyệt tác của Thiên Chúa”.

 3. Linh Mục Francois-Paul Dreyfus, dòng Đaminh (1918-1999) thuộc Trường Thánh Kinh và Khảo Cổ Giêrusalem

       Cha Dreyfus viết trong lá thư gửi nhà xuất bản năm 1986 như sau: ”Tôi đã rất bị ấn tượng tìm thấy trong tác phẩm của Maria Valtorta tên của ít nhất sáu hay bẩy thành phố không xuất hiện trong Thánh Kinh Cựu Ước cũng như Thánh Kinh Tân Ước. Các tên này chỉ được vài chuyên viên hiếm hoi biết tới, và nhờ các nguồn tại liệu không kinh thánh”.

      Tưởng cũng nên biết rằng tác phẩm của bà Maria Valtorta miêu tả 178 thành phố và nơi chốn khác nhau.

      Bà Maria Valtorta cũng dùng các từ rất chính xác trong bối cảnh lịch sử do thái. Trong một bức thư gửi nhà xuất bản năm 1952 tiến sĩ Vittorio Tredici, Chủ tịch Hiệp hội quặng mỏ Italia xác nhận rằng bà Maria Valtorta ”có sự hiểu biết chính xác các khía cạnh toàn cảnh, địa hình, địa chất và quẻng mỏ của đất Palestina”. Khó mà có thể gán cho bà là người ít học, một sự hiểu biết khoa học chính xác sâu rộng như thế.

 4. Đức Giáo Hoàng Pio XII cai quản Giáo Hội từ 2-3-1939 tới 9-10-1958.

        Ngày 26-2-1048 Đức Thánh Cha Pio XII đã nhận được văn bản tác phẩm của bà Maria Valtorta từ tay cha giải tội của ngài là Linh Mục Agostino Bea dòng Tên. Sau đó Đức Giáo Hoàng tiếp 3 linh mục dòng Các Tôi Tớ Đức Maria (OSM) là cha Migliorini cha giải tội của bà Maria Valtorta, cha Berti, giáo sư thần học tín lý, và cha Andrea M. Cecchin, bề trên của hai cha. Đức Pio XII chấp thuận tác phẩm và khyuyên các cha công bố toàn bộ không cắt xén gì, kể cả những tuyên bố rõ ràng kể lại các ”thị kiên” hay các ”lời đọc cho viết”, nhưng không chấp thuận lời dẫn nhập nói tới một hiện tượng siêu nhiên.

      Tất cả các chứng tá của các cha liên quan tới phép của Đức Pio XII được lưu giữ trong vương cung thánh đường Đức Mẹ hồn xác lên trời tại Firenze trung bắc Italia, nơi có mộ của bà Maria Valtorta.

 5. Đức Giáo Hoảng Phaolô VI cai quản Giáo Hội từ 21-6-1963 tới 6-8-1978.

       Ngày 17-1-1974 văn phòng thư ký của Đức Thánh Cha gửi cha Roschini thư Đức Phaolô VI cám ơn và chúc mừng vì công việc nghiên cứu tác phẩm của bà Maria Valtorta. Thư viết: ”Cha đã muốn gửi tới Đức Thánh Cha một ấn bản cuốn sách cuối cùng của cha ”Đức Trinh Nữ Maria trong các bút tích của maria Valtorta”. Đức Thánh cha đánh giá cao lòng hiếu thảo và nhiệt tình của cha cũng như kết qủa qúy báu và hết lòng cám ơn chứng tá với qùa tặng hiếu thảo của cha và cầu chúc cho các cố gắng của cha gặt hái các hoa qủa tinh thần phong phú”.

       Trước đó năm 1963 trong một cuộc gặp gỡ với cha Berti, Đức Ông Pasquale Macchi, thư ký của Đức Phaolô VI, đã xác định rằng tác phẩm của bà Maria Valtorta thật ra đã không bị cấm (mặc dù lệnh cấm chưa được hủy bỏ), và ngài cũng kể rằng hồi còn là Tổng Giám Mục Milano Đức Montini đã đọc một trong bốn cuốn tác phẩm của Maria Valtorta và tặng Đại chủng viện Milano trọn bộ.

 6. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cai quản Giáo Hội từ ngày 13-10-1978 đến ngày 2-4-2005.

       Đức Gioan Phaolô II đã không lên tiếng về trường hợp của bà Maria Valtorta. Chỉ có Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, Tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin, bầy tỏ lập trường không ủng hộ việc phổ biến tác phẩm, vì sợ nó ảnh hưởng trên ”những người ngây thơ hơn”. Tuy nhiên, trong bức thư gửi Đức Hồng Y Siri, Tổng Giám Mục Genova hồi năm 1985, Đức Hồng Y Tổng Trưởng để cho Đức Hồng Y Siri tự do trả lời cho một linh mục thuộc giáo phận Genova hỏi cho biết tác phẩm có phải là mạc khải tư không.

       Sau này trong bức thư đề ngày 6-5-1992, chính Đức Hồng Y Ratzinger đã xin Hội Đồng Giám Mục Italia yêu cầu nhà xuất bản minh xác trong các ấn bản tương lai rằng tác phẩm của bà Maria Valtorta phải được coi như một tác phẩm văn chương cá nhân.

       Đức Gioan Phaolô II đã chủ sự lễ phong Thánh cho cha Pio Năm Dấu Thánh và Mẹ Têrêxa Calcutta, là hai độc giả của bà Maria Valtorta.

 7. Đức Ông Alfonso Carinci (1862-1963), Thư ký Bộ các Lễ Nghi, hiện nay là Bộ Phong Thánh

       Năm 1964 Đức Ông Carinci nhận xét về tác phẩm của bà Maria Valtorta như sau: ” ”Phải phán đoán theo thiện ích mà người ta cảm nhận khi đọc cuộc đời Chúa Giêsu của bà Maria Valtorta, theo ý kiến khiêm tốn của tôi, một khi được xuất bản, tác phẩm này có thể đem nhiều linh hồn về với Chúa: kẻ tội lỗi được hoán cải, và người tốt lành có cuộc sống sồt mến và tích cực hơn. Trong khi sách báo phim ảnh vô luân xâm lăng thế giới và làm cho con người hư hỏng, tôi tự dưng ao ước cảm tạ Chúa đã cho chúng ta, qua trung gian của người đàn bà đã đau khổ biết bao nhiêu và bị đóng đinh trên gường này, một tác phẩm trác tuyệt về bình diện văn chương, cao cả, có thể hiểu được, và sâu sắc trên bình diện giáo lý và tinh thần, lôi cuốn người đọc, và có khả năng được quay thành phim hay trình diễn trong kịch nghệ thánh. Tôi đã thông truyền tư tưởng của tôi cũng như tư tưởng của các thần học gia và chuyên viên chú giải kinh thánh có gía trị lớn như cha Béa, như Đức Ông Lattanzi, giáo sư thần học nền tảng tại Đại học giáo hoàng Laterano, nhưng mặc dầu vậy, đương nhiên là tôi sẵn sàng sửa sai, nếu Đức Thánh Cha phán đoán một cách khác”.

 8. Đức Hồng Y Edward Gagnon (1918-2007), cựu Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Gia đình cho tới năm 1990

       Là một chuyên viên kiểm duyệt sách đạo và là tác giả cuốn ”Việc kiểm duyệt các sách” Ed. Fides, Montreal, 1945, Đức Hồng Y đã cho rằng ”kiểu cho phép ấn hành của Đức Thánh Cha Pio XII hồi năm 1948, trước các chứng nhân” phù hợp với các đòi hỏi của Giáo Luật.

 9. Đức Hồng Y Agostino Bea (1881-1968), dòng Tên, Giám đốc Học Viện Thánh Kinh Roma và là cha giải tội của Đức Giáo Hoàng Pio XII

       Hồi năm 1952 cha Bea viết: ”Tôi đã đọc nhiều cuốn khác nhau trong bộ sách của bà Maria Valtorta, bằng cách đặc biệt chú ý đến các lãnh vực chú giải, lịch sử, khảo cổ và địa hình. Liên quan tới chú giải kinh thánh của tác phẩm tôi đã không gặp thấy các sai lầm quan trọng trong các tập mà tôi đã xem xét. Ngoài ra, tôi đã rất bị ấn tượng bởi sự kiện các miêu tả khảo cổ và địa hình đã được làm với một sự chính xác đặc sắc. Liên quan tới vài yếu tố diễn tả một cách ít chính xác hơn, được tôi hỏi qua một người trung gian, tác giả đã cho các câu trả lời thỏa đáng. Đây đó có một vài cảnh xem ra miêu tả một cách qúa phân tán cũng như một cách rất mầu mè. Nhưng nói chung, việc đọc tác phẩm không chỉ là điều hay và dễ chịu, mà còn thực sự khuyến thiện nữa. Và nó giáo dục đối với những người ít hiểu biết hơn liên quan tới các mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu”.

 10. Mẹ Têrêxa Calcutta (1910-1997) đã được Đức Gioan Phaolô II phong Chân phước

       Theo lời kể của Linh Mục Leo Maasburg, phụ trách các Nam thừa sai bác ái của Mẹ Têrêxa tại Vienne, thủ đô nước Áo, và là người thỉnh thoảng giải tội cho Mẹ trong 4 năm, Mẹ Têrêxa luôn luôn mang theo ba cuốn sách khi di chuyển: Đó là sách Thánh Kinh, Kinh Thần Vụ và một cuốn sách thứ ba. Khi cha hỏi Mẹ là sách gì, thì Mẹ trả lời là một cuốn sách của bà Maria Valtorta. Khi cha hỏi nội dung cuốn sách, thì Mẹ trả lời và lập lại một cách đơn sơ ”Cha hãy đọc nó”.

       Trong một cuộc phỏng vấn dành cho ”Nguyệt san kitô” số ra ngày 15-3-2009 liên quan tới thái độ của Mẹ Têrêxa đối với tác phẩm của bà Maria Valtorta cha Maasburg xác nhận một cách đơn sơ rằng ”tôi nhớ một cách rõ ràng phản ứng tích cực của Mẹ, mà không nhớ các chi tiết”.

 11. Cha Pio thành Pietrelcina mang năm dấu thánh (1887-1968) đã được Đức Gioan Phaolô II phong hiển thánh

       Một năm trước khi cha Pio qua đời, bà Elisa Lucchi, một ngưới tới xưng tội với cha xin lời khuyên liên quan tới việc đọc tác phẩm ”Bài thơ của Con Người Thiên Chúa” cha Pio trả lời: ”Không nhũng cha cho phép, mà còn khuyên con đọc nó nữa”.

       Các con đường cuộc sống của bà Maria Valtorta và của cha Pio Năm Dấu Thánh gần nhau tới độ đã có một cuốn sách viết về đề tài này. Cha Pio cũng đã bị Thánh Văn Phòng (tức Bộ Giáo Lý Đức Tin) lên án, và bị Đức Hồng Y Ottaviani, Tổng tưởng của Bộ trách mắng năm 1961.

      (Nguyệt san Kitô số đặc biệt tháng 3 năm 2009; Emilio Pisani, ”Cha Pio và bà Maria Valtorta”, Ed. CEV, 2000).

 12. Cha Gabriele M. Roschini (1900-1977), người thành lập Phân khoa thần hoc của Học viện Marianum và là cố vấn Tòa Thánh

       Cha là triết gia, thần học gia, chuyên viên thánh mẫu học và lịch sử cuộc đời các thánh, tác giả của 130 cuốn sách. Trong phần dẫn nhập cuốn sách của cha tựa đề ”Đức Trinh Nữ Maria trong tác phẩm của bà Maria Valtorta”, cha viết: ”Ai muốn hiểu biết Đức Trinh Nữ Thánh trong sự hòa hợp với Công Đồng Chung Vaticăng II, Thánh Kinh và Truyền Thống của Giáo Hội, phải kín múc nơi thánh mẫu học của bà Maria Valtorta… bởi vì Đức Trinh Nữ Maria trong tác phẩm của bà Maria Valtorta là cuốn sách quan trọng nhất trong các sách của tôi. Bà Maria Valtorta (1897-1961) thành Viareggio Italia là một trong 18 nhà thần bí lớn nhất mọi thời đại… thánh mẫu học được suy diễn ra từ các bút tích đã được công bố và chưa được in ấn của bà Maria Valtorta đã là một khám phá thực sự đối với tôi. Đã không có bút tích thánh mẫu nào khác, kể cả tổng số của tất cả những gì tôi đã học và nghiên cứu, đã có thể cho tôi một ý tưởng rõ ràng, sống động, đầy đủ, sáng láng và cũng hấp dẫn, đồng thời đơn sơ và cao cả về Đức Maria, tuyệt tác của Thiên Chúa như các bút tích của bà Maria Valtorta”.

 13. Linh Mục René Laurentin (sinh năm 1917), thần học gia, nhà chú giải Thánh Kinh, chuyên viên sử học, từng là cố vấn trong Công Đồng Chung Vaticăng II

       Cha Laurentin là tác giả của 160 cuốn sách về thánh mẫu học cũng như các lần hiện ra của Đức Mẹ trên thế giới, là lãnh vực nghiên cứu chuyên môn của cha. Trong nguyệt san Kitô số 218 ra ngày 15-03-2009 cha đã viết về bà Maria Valtorta như sau: ”Bà Maria Valtorta nổi bật và được khuyên đọc trong nhiều cách… Cuộc sống khổ đau lâu dài của bà đã được sống trong sự phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa, làm chứng cho sự thánh thiện của bà. Bà không rời xa Tin Mừng, không trái nghịch với Tin Mừng trong phần nào hết, không thêm vào đó các giáo huấn xa lạ, và tương hợp với tinh thần của Tin Mừng. Ngoài ra, bà thêm vào các giai thoại được Tin Mừng trình thuật, các giai thoại khác không được biết đến, cả khi chúng đựơc viết một cách dễ dàng bên lề Tin Mừng mà không trái nghịch và ngắt quãng. Điều này thuận lợi cho bà… Tôi đã thu thập các đồng ý rộng rãi nhất, đứng hàng đầu là sự đồng ý của Đức Giáo Hoàng Pio XII, là người che chở bà một cách kín đáo khỏi Thánh Văn Phòng… Nhưng tác phẩm của bà Maria Valtorta không phải là một Phúc Âm thứ năm”.

       (Nguyệt san Kitô số 218 ngày 15-3-2009, tr. 7)

 14. Linh Mục Gabriele Allegra (1907-1976) dòng Phanxicô, dịch giả Thánh Kinh tiếng Hoa, đã được Đức Gioan Phaolô II phong Chân phước

       Là chuyên viên kinh thánh, từ năm 1965 cha đã say mê tác phẩm của bà Maria Valtorta, và trong các năm 1968-1970 đã viết cuốn chú giải tác phẩm của bà Maria Valtorta, đã được ấn hành năm 1985 trong dịp mở án phong chân phước cho cha.

 15. Đức Cha Roman Danylak, Giám Mục Nissa bên Ucraine

      Đức Cha đã bênh vực tác phẩm của bà Maria Valtorta bằng cách duyệt lại các biến cố và trả lời cho những người nêu vấn nạn liên quan tới tác phẩm. Sau đây là vài nhận xét của Đức Cha.

       1/ Nhiều người đưa ra các vấn nạn đã không biết rằng tác phẩm đã được nhiều người đọc trong thập niên 1950 cũng như các lời tuyên bố thuận lợi của những người sống thời đó đối với tác phẩm, và một cách đặc biệt là việc đào sâu thần học và chú giải khoa học của cha Corrado Berti, một thần học gia tên tuổi, đối với ấn bản tiếng Ý in lần thứ hai.

       2/ Các tác phẩm của bà Maria Valtorta không chứa đựng điều gì đáng trách cứ trên bình diện thần học, luân lý hay kinh thánh, cũng không có gì trái với giáo huấn của Giáo Hội hay chống lại huấn quyền của Giáo Hội. Đó là kết luận của nhiều vị có quyền bính khác nhau cũng như của các phê bình đối với tác phẩm.

       3/ Tôi đã nghiên cứu cặn kẽ tác phẩm ”Bài Thơ của Con Người Thiên Chúa” không chỉ trong bản dịch tiếng Anh, mà trong ấn bản gốc tiếng Ý với các ghi chú phê bình của cha Berti. Và tôi khẳng định gia trị thần học của cha và vui lòng tiếp nhận sự khéo léo cũng như ý niệm phê bình của cha đối với ấn bản tiếng Ý. Ngoài ra, tôi cũng đã nghiên cứu các Tập viết của bà Maria Valtorta trong các năm 1943-1950. Và tôi muốn xác định sự chính thống thần học của chúng.

       4) Mặc dù có vài lời tuyên bố chống lại, nhiều thần học gia uy tín, nhiều nhà nghiên cứu Thánh Kinh đã nghiên cứu tác phẩm Bài Thơ xác nhận sự cẩn thận của các miêu tả nơi chốn và địa lý của bà Maria Valtorta và sự hiểu biết chính xác Thánh Địa của bà. Và chúng ta phải nhớ rằng bà không có sức khỏe cũng đã không có cơ may nghiên cứu hay đặt tương quan giữa các quan sát của bà.

       5/ ”Khi đọc 5 cuốn bản tiếng anh hay 10 cuốn bản tiếng Ý, tôi đã rất ngạc nhiên về bản lãnh của bà, không chỉ đối với việc sáng tác văn thơ, mà cả đối với các chi tiết, các nhân vật, các biến cố của trình thuật tin mừng. Tôi tìm thấy các xác nhận ý nghĩa liên quan tới nhiều nhân vật, các tông đồ, các môn đệ, các hối nhân vv… được nhắc tới không chỉ trong Thánh Kinh, mà cả trong truyền thống phụng vụ và giáo phụ của Giáo Hội, và trong truyền thống Bisantine nữa. Các nhân vật của tác phẩm không phải là những người tưởng tượng, như miêu tả trong trình thuật của một thị nhân khác là bà Catherine Emmerich, nhưng là những người thật, mà căn tính được xác nhận bởi các Giáo Phụ và các lễ phụng vụ của Giáo Hội Bisantine.

       Tôi chắc chắn rằng chúng ta sẽ tìm thấy các xác nhận giống như thế trong truyền thống giáo phụ của Tây Phương…

       Ngoài ra, chúng ta tìm thấy trong các trình thuật của bà Maria Valtorta các câu trả lời cho nhiều vấn nạn kinh thánh đã được thảo luận và nhắc đi nhắc lại trong nhiều thế kỷ bởi các nhà nghiên cứu Thánh Kinh và các thần học gia, vì các trái nghịch bề ngoài trong các tường thuật về sự Phục sinh, giữa các Phúc Âm Nhất Lãm và Phúc Âm thánh Gioan.

       Sau cùng bà Maria Valtorta trình bầy một trong những hình ảnh linh động nhất, đẹp nhất, sống động và có tính thuyết phục của Chúa Giêsu, mà tôi chưa từng gặp bao giờ. Nhiều độc gỉa đã củng cố đức tin của mình và đã kín múc được một sự hiểu biết sâu xa hơn về các tác phẩm hợp quy luật của Thánh Kinh Tân Ước. Tác phẩm ”Bài Thơ của Con Người Thiên Chúa” đáng được nghiên cứu.

       Tôi nhiệt liệt khích lệ tất cả các chuyên viên phê bình nghiên cứu tác phẩm ”Bài thơ của Con Người thiên Chúa”, hay ”Phúc Âm như đã được mạc khải cho tôi”, bằng cách đọc toàn tác phẩm, và không dựa trên các ấn tượng hời hợt bề ngoài, hay trên các biên soạn được lập lại nhiều nhất của các nhà phê bình khác. Tôi chắc chắn là họ sẽ tìm thấy trong đó sự an bình và niềm vui, một sự hiểu biết sâu xa và thân tình hơn về Chúa Cứu Thế của chúng ta và Đức Trinh Nữ Mẹ Người, mà tôi và biết bao nhiêu độc giả khác rải rác trên thế giới đã tìm thấy.

       (Internet: Dossier Maria Valtorta tr. 48-53)

  16) Xác nhận của Đức Mẹ Mediugorje

       Năm 1982, do yêu cầu của nhiều độc giả của bà Maria Valtorta, linh mục Franjo xúi chị Marija, một trong các thanh thiếu niên được trông thấy và nói chuyện với Đức Mẹ, hỏi Đức Mẹ xem có thể đọc cuốn sách này không, thì Đức Mẹ trả lời: ”Các con có thể đọc nó”.

       Ngày 27-1-1988, trong một cuộc phỏng vấn dành cho ông Jan Conell, một trạng sư người Mỹ, chị Vicka, một trong các người trẻ nhìn thấy Đức Mẹ hiện ra và nói chuyên với Đức Mẹ, cho biết chi tiết hơn.

       Hỏi: Có một mạc khải tư gồm 4 cuốn của Maria Agreda, tựa đề ”Kinh thành thần bí của Thiên Chúa”. Giáo Hội đã chấp thuận khảo luận này như là mạc khải tư. Chị có biết gì về tác phẩm này không?

       Đáp: Chắc chắn là tôi có biết chứ. Đức Mẹ đã nói tới tôi rằng đó là một văn bản đích thực kể lại cuộc đời Mẹ.

       Hỏi: Có các sách nào khác thuộc loại này mà Đức Mẹ đã nói với các bạn không?

       Đáp: Có. Bộ ”Phúc Âm như đã được mạc khải cho tôi” mười cuốn của bà Maria Valtorta. Đức Mẹ nói rằng: ”Phúc Âm như đã được mạc khải cho tôi” là sự thật.

       Hỏi: Chúng ta thật có phúc khi biết được điều này chị Vicka!

       Đáp: Vâng, Đức Mẹ đã nói rằng nếu một người muốn biết Chúa Giêsu thì phải đọc ”Phúc Âm như đã được mạc khải cho tôi” của bà Maria Valtorta. cuốn sách này là sự thật.

       Vào cuối thập niên 1990 Trung tâm xuất bản Valtorta đã nhận được một tấm hình của chị Vicka đang qùy cầu nguyên trên mộ của bà Maria Valtorta trong nhà thờ Đức Mẹ hồn xác lên trời của dòng Các nam tôi tớ của Đức Maria tại Firenze.

       (Nguyệt san Tiếng Vọng của Mẹ Maria Eco di Maria số 124 tháng 12 năm 1995/ tháng giêng năm 1996; Nguyệt san Kitô Chrétiens Magazine số 218, ngày 15-3-2009, tr.10-12)

 17. So sánh với các người được thị kiến khác

        Trong lịch sử dài hơn 2.000 năm của Giáo Hội đã có các mạc khải và các thị kiến tư xảy ra sau ngày Chúa Giêsu Kitô về Trời. Điển hình là trường hợp của thánh Phaolô (2 Cr 12,2-4).

       Các vụ Đức Mẹ hiện ra cũng đã bắt đầu khá sớm. Truyền thống kể lại vụ Đức Mẹ hiện ra với thánh Giacôbê, anh của Tông Đồ Gioan, tại Saragozza (Cesaraugusta), khi thánh nhân đi truyền giáo bên Tây Ban Nha. Và biến cố này đã là nguồn gốc của đền thánh Đức Mẹ Pilar.

       Từ ngày đó đến nay, theo cuốn “Từ điển các vụ hiện ra của Đức Trinh Nữ Maria” do thần học gia René Laurentin và Patrich Sbalchiero biên soạn, đã có 2.400 vụ Đức Mẹ hiện ra, để loan báo các biến cố tương lai như tại Fatima và La Salette, hay để giải thích các sự thật thần học như tại Lộ Đức, hoặc nói chung để khuyến khích kitô hữu nên thánh.

       Vì thế các thị kiến của bà Maria Valtorta không phải là ngoại thường.

      Các thị kiến về các cảnh trong Phúc Âm cũng không phải là điều lẻ loi.

       Có các vị thánh lớn đã được các thị kiến như thánh nữ Hildegard thành Bingen (1098-1179(, thánh nữ Angela di Boemia (+ 1243), thánh nữ Gertrude thành Helfta (1256-1302), thánh nữ Brigida nước Thủy Điển (1302-1373), thánh nữ Terexa thánh Avila (1515-1582), thánh nữ Maria Maddalena de Pazzi (1568-1607), và nhiều vị khác nữa…

       Gần hơn là trường hợp của thánh nữ Faustina Kowalska và Terexa Newmann. Tất cả đều cống hiến cho chúng ta các thị kiến giới hạn về các khía cạnh khác nhau của cuộc đời Chúa Giêsu, cách chung là cuộc Khổ Nạn.

       Trong số các người được thị kiến về toàn cuộc sống của Đức Mẹ hay cuộc đời của Chúa Giêsu có nữ Chân phước Maria Agrea (1602-1665), nữ Chân phước Anna Catharina Emmerich (1774-1824) và bà Maria Valtorta.

  Kết luận

       Tuy chưa được Giáo Quyền thừa nhận là mạc khải, bộ sách ”Phúc Âm như đã được mạc khải cho tôi” là một tác phẩm tuyệt vời cả trên bình diện văn chương. Bạn không bị bắt buộc phải tin, nhưng đàng khác cũng không nên có thành kiến, đặc biệt khi các thành kiến ấy đến từ người khác và được lập đi lập lại một cách máy móc, không được kiểm thực và không có bằng chứng chính xác nào.

       Hãy biết thưởng thức tác phẩm với tâm trí rộng mở, đơn sơ, tự do, thanh thoát và tự lượng định lấy những gì bạn cảm nhận được. Nếu bạn cảm thấy gần Chúa hơn, hiểu biết và yêu mến Chúa nhiều hơn, nhất là sống đức tin-cậy-mến với nhiều ý thức và dấn thân hơn, thì đã đáng công lắm rồi. Mọi sự còn lại chính Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Cha Thánh Giuse sẽ nói cho bạn biết.

       Vì yêu thương chúng ta Thiên Chúa có trăm phương nghìn cách để liên lạc với chúng ta và tự mạc khải cho chúng ta. Tại sao chúng ta lại tìm cách hạn chế quyền năng đó của Thiên Chúa?

  Roma 22-8-2012
Lễ Đức Maria Trinh Vương
Linh Mục Giuse Hoàng Minh Thắng

Download TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI 

Viết bởi Maria Valtorta

Dịch gỉa: Nữ tu Phạm Thị Hùng CMR

Quyển 1-Chuẩn Bị.pdf

http://www.mediafire.com/view/?4bcyq77ze4ai2yo 

Quyển 2_Năm I Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?ea5acw4wttbdudd

Quyển 3-Năm II Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?o6gi6p73sk5lrhd

Quyển 4-Năm II Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?s9akma9mmdzdb26

Quyển 5-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?yrq9nq416v5s4dx

Quyển 6-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?8vl7kzjkskplk1b

Quyển 7-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?apbbvph8ndui8m3

Quyển 8-Chuẩn Bị Cuộc Tử Nạn.pdf

http://www.mediafire.com/view/?kbp3i58kizp5ad1

Quyển 9-Cuộc Tử Nạn.pdf

http://www.mediafire.com/view/?txb433uklyoke1x

Quyển 10-Vinh Quang.pdf

http://www.mediafire.com/view/?oln727ghllo7536

 

by Tháng Tám 31, 2012 Comments are Disabled chưa phân loại, Cuộc đời Chúa Giê-su (Maria Valtorta), Tâm Linh
MƯỜI VÙNG KHÍ NĂNG và THẦN KINH HỆ trên thân thể con người

MƯỜI VÙNG KHÍ NĂNG và THẦN KINH HỆ trên thân thể con người

      https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/08/10-vung-khi-nang-va-than-kinh1.jpg

Ai trong chúng ta cũng biết cấu trúc tổng quát của thân thể con người, nhưng rất ít người biết rằng toàn hệ thống thần kinh có các điểm tới hay khởi hành ở 10 đầu ngón chân, mười đầu ngón tay và trên lòng hai bàn chân, lòng hai bàn tay và trên hai tai, cũng như trên mặt. Các đầu dây thần kinh này chạy qua các cơ phận trong toàn thân thể con người. Khi tác động (bấm, ấn, thoa, bóp) trên các đầu ngón chân, đầu ngón tay, từng ngón chân tay và các vùng khác nhau trên lòng hai bàn chân và lòng hai bàn tay cũng như hai tai và trên mặt, là chúng ta trực tiếp tác động trên các đầu dây thần kinh nối liền với các cơ phận tương ứng. Nếu không bị đau, các cơ phận này sẽ được gia tăng sinh lực; nếu bị suy yếu, chúng sẽ được bồi dưỡng; nếu có bệnh, chúng sẽ giảm đau và từ từ khỏi bệnh.

       Bác sĩ Hiroshi Motoyama, người Nhật, không chỉ nghiên cứu các vùng phản xạ và các đường kinh tuyến để đẩy huyệt, mà còn chế ra máy điện từ xác định các tắc nghẽn năng lượng dựa trên sự kích thích điện từ trên các đường kinh, qua đó bác sĩ chẩn bệnh trước khi nó lộ hiện ra ngoài. Các nghiên cứu này của bác sĩ Motoyama xác nhận thực tại mỗi khi một điểm nào đó trên đường kinh bị tắc nghẽn, dòng năng lượng của nó bị chặn lại hay hạn chế kéo theo tình trạng bất an, ảnh hưởng trên một vùng hay trên cơ phận liên hệ. Nhấn, đẩy, thoa, bóp giúp thông thương kinh mạch, khí huyết luân lưu đều hòa, cung cấp hồng huyết cầu và dưỡng khí cần thiết cho mọi tế bào, khiến cho cơ phận ấy khỏe mạnh trở lại và hết đau yếu.

1. Để có thể áp dụng đúng đắn phương pháp phản xạ học, điều quan trọng là phải thuộc vị trí của các cơ phận trong thân thể và các vùng phản xạ tương ứng. Càng năng nhìn và nghiên cứu các đồ hình bao nhiêu, bạn càng nhận diện ra mười vùng năng lượng hàng dọc và các cơ phận chúng đi qua bấy nhiêu.

     Mười vùng năng lượng chạy dọc theo thân thể mỗi bên 5 đường cân đối với nhau từ năm ngón chân và từ năm ngón tay: 5.4.3.2.1 – 1.2.3.4.5.

     Tâm của thân thể là vùng 1: đàng trước chạy tử đỉnh đầu xuống giữa trán, dọc sống mũi, xuống môi, miệng, cằm, giữa cổ, qua hạch Amiđan, xuống giữa ngực, bụng, rốn, hạch Đan Điền, bộ sinh dục và hậu môn. Đàng sau chạy từ đỉnh đầu xuống óc con, gáy, và chạy dọc xương sống cho tới xương cùng. Hai đường kinh chỉ huy là Đốc mạch (= kinh dương chạy đàng sau lưng) và Nhâm mạch (= kinh âm chạy phía trước bụng).

     1) Vùng 1 bắt đầu từ ngón chân cái và ngón tay cái của cả hai bên, chạy dọc lên mặt trong của chân và cánh tay lên đến đỉnh đầu (huyệt Bách Hội, tức Chakra số 7).

     Nó chạy qua các cơ phận như hốc mũi, vòm miệng, duyến tùng, duyến yên, tim (bên trái), dạ dầy, cột sống, dạ con, bọng đái, bộ phận sinh dục và hậu môn.

     2) Vùng 2 bắt đầu từ ngón chân và ngón tay thứ hai (tay trỏ) của cả hai bên, chạy dọc thân thể và cánh tay cho đến đỉnh đầu.

     Nó chạy qua các cơ phận như hai mắt, xoang, duyến ức, duyến cận giáp, duyến giáp, duyến tụy, phổi, phế quản, hạch hạnh (Amiđan), tim và dạ dầy. Như thế, nhiều cơ phận thuộc cả vùng 1 và vùng 2.

     3) Vùng 3 bằt đầu từ ngón chân giữa và ngón tay giữa của cả hai bên, chạy dọc thân thể và dọc cánh tay lên đến đỉnh đầu.

Nó chạy qua mắt, duyến giáp, duyến ức, duyến tụy, phổi, thận ở cả hai bên, dạ dầy và ruột thừa, gan và túi mật (bên phải).

     4) Vùng 4 bắt đầu từ ngón chân thứ tư và ngón tay thứ tư (ngón tay đeo nhẫn) của cả hai bên, chạy dọc thân thể và cánh tay lên đến đầu.

Nó chạy qua ruột thừa, gan và van hồi tịt (bên phải), lá lách (bên trái) vai, tai và phổi (cả hai bên).

     5) Vùng 5 bắt đầu từ ngón chân út và ngón tay út của cả hai bên.

Nó chạy qua gan (bên phải) và hai bên tai, gáy.

2. Như thế hai bàn chân và hai bàn tay của chúng ta được chia thành 5 phần tương ứng với 5 phần trên thân thể với các cơ phận liên hệ.

     1) Khi bấm, đẩy, nắn, thoa, bóp hay chuyền thiên khí năng cho phần I gồm các ngón chân và các ngón tay là chúng ta tác động trên não bộ, các cơ phận và các phần khác của đầu như: óc, tai, mắt, mũi, họng, cổ, gáy, duyến tùng, duyến yên, duyến giáp trạng, phần trên cùng của cột sống, và chữa các tình trạng mất quân bình, yếu nhược hay bệnh hoạn của chúng.

     2) Khi bấm, nắn, đẩy, thoa, bóp hay chuyền thiên khí năng trên phần II, kế tiếp các ngón chân, các ngón tay là chúng ta tác động trên vùng ngực và các cơ phận của nó như: phổi, tim, ngực, duyến ức, duyến giáp, duyến cận giáp, duyến tụy, vai, cánh tay, phần thứ hai của cột sống.

     3) Khi bấm, nắn, đẩy, thoa, bóp hay chuyền thiên khí năng trên phần III, chúng ta tác động trên các cơ phận như: gan, mật, dạ dầy, lá lách, tuyến thượng thận, thận, ruột gìa (đại tràng) khúc đi lên, khúc ngang và khúc đi dọc xuống, ruột non (tiểu tràng), hai bên hông và phần thứ ba của cột sống.

     4) Khi bấm, nắn, đẩy, thoa, bóp hay chuyền Thiên Khí Năng trên phần IV, chúng ta tác động trên bộ phận sinh dục, bọng đái, ruột cùng (trực tràng), và phần cuối cùng của cột sống.

     5) Khi bấm, nắn, đẩy, thoa, bóp hay chuyền Thiên Khí Năng trên phần V, chúng ta tác động trên các cơ phận thuộc vùng này.

     Ngoài việc thoa, bóp 4 phần trên đây của cơ thể con người, chúng ta có thể thường xuyên làm các động tác chữa bênh rất đơn sơ và hữu ích sau đây:

     1) Dùng móng tay cái bấm phần trước móng các đầu ngón tay và đầu ngón chân, để kích thích các đường kinh khởi đầu hay kết thúc nơi các đầu ngón tay và đầu ngón chân.

     2) Nắn và xoay hai bên đầu các ngón tay và đầu các ngón chân để kích thích các kinh mạch chạy qua các cơ phận trong người.

     3) Xoay tròn quanh các ngón tay và các ngón chân, để kích thích các kinh mạch và tác đông trên các cơ phận trong thân thể.

     4) Thoa cả hai bàn tay và hai bàn chân thường xuyên khi có giờ, để tác động trên các dây thần kinh nối liền với các cơ phận toàn thân thể.

     5) Thoa hai tai, bên trong cũng như bên ngoài, từ trên xuống dưới, để tác động trên các dây thần kinh và các huyệt nối liền với các cơ phận và cấu trúc thân thể, theo các nguyên tắc của thuật nhĩ châm.

     6) “Rửa mặt khô”, tức thoa mặt bằng hai bàn tay, trên trán, hai bên thái dương, hai bên má gồm cả tai, hai bàn tay úp lên mặt đưa lên đưa xuống xuống từ trán trên mắt mũi miệng cằm, để tác động trên các đầu dây thần kinh và các huyệt nối liền với các cơ phận trong người, theo các nguyên tắc của thuật diện chẩn.

   Nắn bàn chân để chẩn bệnh

     Đây là lý do giải thích tại sao khi khám bệnh bằng cách nắn bàn chân, chúng ta có thể nhận ra ngay cơ phận nào trong người bị bệnh hay suy yếu hoặc đang có vấn đề. Và cách trị liệu là thoa bóp vùng đó cho tới khi nào hết đau là bớt hay khỏi bệnh.

     Do đó, cần học nhớ các phần của mu và lòng bàn tay và bàn chân nối liền với các cơ phận khác nhau trong cơ thể để có thể chữa trị hữu hiệu. Khi có thiên khí năng, việc chữa bệnh bằng cách bấm huyệt và thoa bóp phản xạ học rất công hiệu, vì khí năng được chuyền vào các đường kinh, các huyệt và các vùng trong cơ thể khiến cho chúng mau hồi phục hơn.

LM Hoàng Minh Thắng

by Tháng Tám 31, 2012 3 comments Tài liệu TKNăng
Chữa bệnh TRĨ hay MẠCH LƯƠN công hiệu nhanh chóng

Chữa bệnh TRĨ hay MẠCH LƯƠN công hiệu nhanh chóng

 https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/08/Ch%E1%BB%AFa-b%E1%BB%87nh-TR%C4%A8-hay-M%E1%BA%A0CH-L%C6%AF%C6%A0N-c%C3%B4ng-hi%E1%BB%87u.jpg

           Trĩ hay mạch lươn là một trong các bệnh khá thông thường nhiều người bị Có nhiều lý do giải thích nguồn gốc của bệnh này:

       – vì uống ít nước nên bộ máy tiêu hóa hoạt động khó khăn,

       – phân khô khiến mỗi khi đi đại tiện phải rặn nhiều,

       – vì ăn qúa nhiều gia vị nóng,

       – vì giấy vệ sinh là giấy báo,

       – hoặc vì nhiều lý do khác.

       Khi bị nặng nó lòi ra, ngồi gây ra đau đớn, chảy máu và rất khó chịu. Cho tới nay phương cách chữa trị duy nhất là giải phẫu cắt bỏ, nhưng vẫn có nguy cơ bị lại sau một thời gian.

1. Thật ra có một cách trị bệnh trĩ rất dễ và đơn sơ, nhưng ít người biết.

       Đó là:

       – dùng ngón tay,

       – hay chiếc đũa đầu cột ít bông gòn (để cho bớt đau khi nhấn),

       – nhấn thật mạnh trên huyệt Hội Âm, là huyệt nằm ở chính giữa khoảng cách giữa hậu môn và bộ sinh dục,

       – mỗi lần nhấn giữ lâu chừng 2-3 phút,

       – sau đó nhấn tiếp chừng 5-10 lần,

       – trĩ sẽ rút vào trong ngay lập tức.

2. Cũng có thể chữa bằng thiên khí năng.

       – một tay để trên chaka 7 (Hội Dương)

       – tay kia dưới chakra 1 (Hội Âm)

       – mỗi lẫn để chừng 10-15 phút.

       Đây là hai cách chữa bệnh trĩ rất công hiệu và mau chóng, chỉ trong mươi phút. Thiên khí năng chữa trĩ ngoại, nhưng đặc biệt rất công hiệu đối với trĩ nội xuất huyết.

3/ Tỏi

        Dr. John Douillard hướng dẫn như sau: Lấy một tép tỏi, cắt hai đầu cho tép tỏi được trơn tru, bóc vỏ, thoa một lớp dầu dừa hay dầu olive bên ngoài tép tỏi. Nhét vào bên trong hậu môn để suốt đêm, không gây xót. Làm như vậy trong 7 đêm. Trong tình trạng nặng thì làm thêm một số lần nữa cho đến khi dứt hẳn. Đây là cách đơn giản nhưng hữu hiệu.

        Tỏi giúp giảm viêm và sát trùng, hỗ trợ cơ thể trong việc tự chữa lành.

       Trường hợp viêm trĩ nghiêm trọng, uống thêm trà neem đậm và amalaki.

4/ Ớt cayenne

       Ngoài ra cũng có thể uống trà ớt Cayenne hay bất cứ loại rượu ớt nào, như chỉ dẫn trong bài đánh cảm. Mổi lần từ 1/4 và tăng dần lên 1 muỗng cà phê bột ớt hay rượu ớt. Ngày 3 tách  pha với nước nóng.♦

5/ Lá neem:

       Nấu nước lá neem đậm đổ ra chậu để xông hậu môn lúc nước nóng, đến khi vừa ấm thì rửa hậu môn và ngâm 10 phút.  Mỗi ngày 1-2 lần. Uống thêm trà lá neem.

      Ở Sydney nước Úc có người trong khóa Thiên Khí Năng dùng cách này đã khỏi bệnh trĩ trong vòng một tuần.

      Có thể giã nát lá neem tươi hay dùng bột lá neem hòa với nước hay dùng dầu neem đắp vào chỗ bị trĩ rồi băng lại rất tốt.

 6/ Lá diếp cá (giấp cá): Cùng cách như dùng lá neem:

       Nấu nước lá diếp cá đổ ra chậu để xông hậu môn lúc nước nóng, đến khi vừa ấm thì rửa hậu môn và ngâm 10 phút. Mỗi ngày 1-2 lần. Uống thêm nước ép lá diếp cá tươi (giã nhuyễn 50-100 gam lá diếp cá rồi vắt lấy nước).

       Lá diếp cá giã nguyễn đắp vào nơi bị trĩ rồi băng lại cũng giúp mau khỏi.

       LM Hoàng Nguyễn chia sẻ: Lá Diếp cá xay ra bỏ tủ lạnh uống thay nước trong vòng 1 tuần sẽ thấy hiệu quả vô cùng kỳ diệu.

 LM Hoàng Minh Thắng

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/12/DISCLAIMER.jpg

 

by Tháng Tám 31, 2012 4 comments Tài liệu TKNăng
CẢM LẠNH rất nguy hiểm, không nên khinh thường

CẢM LẠNH rất nguy hiểm, không nên khinh thường

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/08/C%E1%BA%A3m-l%E1%BA%A1nh-r%E1%BA%A5t-nguy-hi%E1%BB%83m.jpg

I. Đánh cảm

       Cảm lạnh là một một bệnh rất thông thường. Nhưng ngoại trừ một số dấu chỉ quen thuộc như sổ mũi, tịt mũi, nhức đầu, người gai gai sốt, khó chịu ai cũng biết, cảm lạnh thường khiến cho nhiều cơ phận khác bị suy yếu và gây ra một số bệnh, mà các bác sĩ tây y và cả đông y cũng không khám ra, không biết lý do tại sao, vì không có các vết nội thương ngoại thương, cũng không có vi khuẩn và không có cơ phận nào bị hư hỏng. Tuy không biết là bệnh gì nhưng các bác sĩ vẫn cho thuốc, thường là thuốc giảm đau, càng uống càng không khỏi, lâu ngày bị mất trí nhớ, loét bao tử, hư thận và khiến cho hệ thống thần kinh bị tê liệt. Cảm lạnh thường gây đau nhức tứ chi mình mẩy đến tê bại không cử động được, nên có bác sĩ cho là hệ thần kinh bị hư và đề nghị giải phẫu…

II. Lý do

         1) Trời mưa, trời gió hay trời lạnh mà mặc không đủ ấm, đầu không đội mũ, chân không đi giầy, không mang tất ấm, cổ không quấn khăn vv… vì thế các cơ phận thuộc bộ máy hô hấp (mũi, miệng, cổ họng, phổi… ) và tuần hoàn (tim, dạ dầy, ruột, gan, thận, lá lách…) bị lạnh. Khí âm xâm nhập nhiều qúa làm mất thế quân bình trong cơ thể, gây bế tắc kinh mạch, và suy yếu các cơ phận.

         2) Ngồi trúng chỗ có luồng gió (ở tư gia, trong nhà thờ, nhà hội có mở cửa trước cửa sau, hay cửa ngang hông, trong xe mở cửa kính hay máy lạnh qúa vv… ) có thể đưa đến chỗ bị cảm.

         3) Đặc biệt tại những vùng sáng sớm và ban chiều trời lạnh, nhưng ban trưa trời nóng (điển hình như California, Texas, Florida… ), có rất nhiều người bị cảm lạnh, vì không để ý, mặc không đủ ấm khi đi làm ban sáng và về nhà lúc chiều tối. Cứ thế, khí âm nhập vào người mỗi ngày một chút, và từ từ khiến cho cơ thể bị suy nhược và sinh ra nhiều triệu chứng mà không biết là bệnh gì.

III. Triệu chứng

    1. Một số triệu chứng thông thường dễ nhận ra:

         1/ Sổ mũi, tịt mũi.

         2/ Nhức đầu, nặng đầu.

         3/ Ho.

         4/ Cảm thấy người vừa nóng vừa lạnh: hơi sốt hay sốt nặng (khi có vi khuẩn gọi là bệnh cúm).

         5/ Bần thần, mỏi mệt trong người.

    2. Các triệu chứng khó nhận ra:

        Nhưng chính vì khí âm xâm nhập thân thể, khiến bế tắc kinh mạch, khí huyết và làm suy yếu các cơ phận hô hấp và tuần hoàn, nên cảm lạnh làm nảy sinh ra nhiều triệu chứng, mà cả các bác sĩ cũng không biết và không ngờ tới.

        1/ Trằn trọc, khó ngủ ban đêm.

        2/ Ngủ không thẳng giấc, đi tiểu lắp nhắp ban đêm, hay bị chuột rút.

        3/ Đổ mồ hôi ban đêm.

        4/ Đầy bụng, khó tiêu.

        5/ Nhất là đau và nhức mỏi trong người: đặc biệt là hai cánh tay, cổ, bả vai, sống lưng, đầu gối, hai chân và hai bắp chân.

        6/ Nhiều khi có cảm tưởng như bị đau nhức thần kinh hay từ trong xương, đến độ bị bại xuội, cổ không quay được, không giơ hay co tay chân lên được, không cúi xuống được hay không thể mặc và cài cúc áo quần vv….

        – Đi khám bác sĩ, chụp phim thì không có cơ phận nào bị hư hại hay tật bệnh gì. Các bác sĩ chỉ biết cho thuốc giảm đau, bệnh nhân có cảm tưởng giảm đau nhức, nhưng càng uống càng tệ hại thêm, vì người ngày càng bần thần, mỏi mệt và đau nhức hơn. Thuốc giảm đau, thuốc ngủ sinh ra bệnh mất trí nhớ, đau bao tử và đau thận…

         7/ Tức ngực, nhói ngực, khó thở, hụt hơi.

         8/ Nghẹt tim, tim hồi hộp, ngộp thở, hay có cảm tưởng bị bệnh tim.

         9/ Khó tiêu, táo bón, nặng bụng, ợ chua.

         10/ Đau bụng lâm râm.

         11/ Tiêu chảy.

         12/ Đau tức bên hông phải trên vùng gan.

         13/ Đau tức bên hông trái trên vùng lá lách.

         14/ Teo tĩnh động mạch trên đầu (dẫn tới chỗ đau đầu và bị tai biến mạch máu não vì lượng hồng huyết cầu và dưỡng khí không lưu thông đủ để nuôi óc).

         15/ Da mặt xanh xao, tái mét hay thâm, và người lúc nào cũng cảm thấy bần thần, mệt mỏi như mất hết sức lực, chán nản, buồn sầu, chỉ muốn đi nằm, không muốn làm gì, và không làm được gì, vì người lúc nào cũng mệt mỏi.

         Đi khám bác sĩ, thử máu, thử phân, thử nước tiểu, chiếu điện, thì không tìm ra bệnh gì, và ai cũng bảo là bệnh giả đò.

        16/ Trẻ em bị cảm lạnh thì khó ngủ, hay ói sữa, biếng ăn, táo bón (hai ba ngày mới đi một lần, mà phải dùng thuốc, phân hôi), tiêu chảy, hay khóc, quấy, da không trắng và hồng hào, nhưng tái mét, khi khóc thì tím ngắt mặt mũi chân tay, và không dỗ được.

     – Tất cả các triệu chứng trên đây đều có thể do cảm lạnh mà ra, đặc biệt các trường hợp đau nhức số 5, trường hợp số 15 và số 16 là dấu chứng đã bị cảm lạnh từ rất lâu, chứ không phải các cơ phận bị hư hại.

     – Khi bị cảm lạnh, phần nào trong cơ thể yếu thì phần đó thường dễ bị ảnh hưởng.

     – Có nhiều người bị cảm lạnh hàng chục năm mà không biết, đi khám hết mọi bác sĩ tại mọi nhà thương nổi tiếng và uống biết bao nhiêu thứ thuốc, mà vẫn không khỏi bệnh. Và các bác sĩ vẫn không biết chính xác là bệnh gì, kể cả các bác sĩ dông y và châm cứu. Đây là các trường hợp bị đau nhức (số 5) và người mất sắc, bần thần, kiệt sức (số 15) và trẻ em (số 16).

IV. Cách chữa

     Có nhiều cách chữa.

     1) Bình thường có thể cạo gió.

         1/ Cách cạo:

     – Dùng đồng bạc hay tốt nhất là cái muỗng lớn (nếu bằng bạc nguyên chất càng tốt) cạo gió bằng dầu nóng (hay bất cứ loại nào cũng được)

     -Bất đắc dĩ có thể dùng cả các loại dầu nấu ăn,      đặc biệt là long não pha với dầu ô liu, nhưng tốt nhất là dầu dừa.

     – Tỳ mạnh đồng bạc hay cái muỗng bằng kim loại sát xuống da.

      – Cạo chậm rãi và kéo đường càng dài càng tốt.

      – Như thế sẽ ít đau và không trầy da.

         2/ Chỗ cạo: khắp nơi trên người

     – Cạo: cổ, gáy, trán, trên đầu, hai thái dương, bả vai, bên trong bên ngoài hai cánh tay, mu bàn tay, ngón tay, lưng, ngực, bụng, bụng dưới, mông, bên trong bên ngoài đùi, chân, bắp vế và mu bàn chân, ngón chân.

         3/ Cạo gió rất khoa học nhưng ông bà cha mẹ chúng ta không giải thích nên mình không hiểu.    Thật ra:

     – cạo gió là đả thông kinh mạch để cho khí huyết lưu thông đều đặn trở lại,

     – tái lập thế quân bình cho cơ thể,

     – dầu nóng tăng khí dương,

     – đồng bạc hay cái muỗng, tức chất kim khí, rút khí âm trong người ra.

         Cạo gió xong là tự nhiên hết các triệu chứng kể trên và khỏi bệnh, thường là ngay tức khắc.

     – Chỉ khi bị cảm (cảm nắng cũng như cảm gió và cảm lạnh) cạo da mới đỏ hay có hột và bầm tím, nếu bị cảm nặng từ lâu. Càng bị cảm lâu càng bầm. Nhưng chỉ vài hôm sau là các vết đỏ và bầm sẽ biến đi.

        Vì thế nói cạo gió vỡ mạch máu da là không đúng. Ngày nay nhiều bác sĩ Mỹ cũng bắt đầu tin, vì người ta đã cạo ngay trước mặt cho bác sĩ thấy.

     – Tuy nhiên, vì sống tại Tây Âu có nhiều người không quen hay chưa cạo gió bao giờ, nên sợ đau hay sợ bị dị nghị, mà quên đi hay khinh thường cách chữa bệnh rất hữu hiệu này của ông bà cha mẹ.

         4/ Cách pha long não với dầu ô liu:

     – 100 gr bột long não nguyên chất đã tán sẵn, mua ở tiệm thuốc bắc (không phải long não bỏ quần áo hay giết gián),

     – pha với 1 lít dầu ô liu (dầu trộn sà lát loại nào cũng đựợc),

     – bình thường các tiệm thuốc bắc bán bịch1 poundlong não (10 US$), thì pha với 1 galon dầu ôliu, rồi chia nhau.

     – Dầu ô liu pha với long não còn có thể dùng để thoa bóp, chữa trặc hay sưng chân tay và thấp khớp rất công hiệu. Đau cổ, ho, thoa dầu ô liu pha với long não một lúc sẽ khỏi.

    2) Xông với nước lá

– Nấu một nồi nước lớn với lá sả, lá cây dầu huynh diệp, lá chanh, lá cam, lá quít, lá bưởi hay ngải cứu vv…

– Trước khi trùm chăn xông trong phòng kín gió, thì bỏ thêm 10-20 gr bột long não nguyên chất, nếu có (thường tiệm thuốc bắc có bán bịch lá xông có thêm gói bột long não nhỏ).

– Xông xong, lau mồ hôi khô, và mặc quần áo ấm ngay rồi uống vài viên thuốc cảm hay nước trà gừng nóng, đắp chăn nằm nghỉ hay ngủ được một giấc, sẽ thấy người khỏe ngay.

Vì khi xông chảy mồ hôi nhiều nên cơ thể mất nhiều muối đạm, các lỗ chân lông hở, do đó cần phải cẩn thận, không được tắm, kiêng ra ngoài, để đừng bị lạnh trở lại.

    3) Đánh cảm bằng cám rang

        – Lấy cám bỏ vào chảo rang nóng lên.

        – Bỏ vào miếng vải túm lại.

        – Rồi vuốt từ trên đỉnh đầu vuống xuống.

        – Vuốt khắp nơi trong người: đầu tóc, mặt, ngực, bụng, cơ quan sinh dục, lưng, mông, đàng trước đàng sau tay chân, lòng bàn tay bàn chân và ngón tay ngón chân…

     Cảm nặng thì phải rang 2, 3 mẻ và vuốt vài lần sẽ đỡ ngay, vì mọi kinh mạch đều được đả thông và khí huyết di chuyển bình thường trở lại.

    4) Đánh cảm bằng gừng

         – 100 gr gừng giã dập,

         – túm vào một chiếc khăn hay vải mỏng,

         – nhúng vào một bát rượu mạnh (rượu đế, volka vv…),

         – vuốt từ đỉnh đầu xuống cả người phía trước: mặt mũi, ngực, bả vai, cánh tay bên trong bên ngoài, lòng và mu bàn tay, rồi các ngón tay, bụng, bắp vế xuống cho tới lòng và mu bàn chân và các ngón chân, phía sau: đầu, ót, gáy, lưng, mông xuống cho tới lòng bàn chân và các ngón chân.

    5) Đánh cảm bằng trứng gà và đồng bạc nguyên chất (pure silver coin)

         – Luộc 5-7 trứng gà chín lên (18 phút thì trứng chín), luôn để nước sôi.

         – Bóc vỏ, bổ đôi, bỏ lòng đỏ.

         – Nhét đồng bạc nguyên chất vào giữa.

         – Túm vào mảnh vải gấp đôi hay khăn hơi dầy một chút để khỏi bị rát da.

         – Rồi cứ thế vuốt từ trên đỉnh đầu xuống y như đánh cảm bằng cám và gừng.

         – Vuốt cho tới khi nào trứng hoàn toàn nguội mới thay trứng và thay đồng bạc khác (mỗi trứng vuốt khoảng 10 phút).

    Nếu bị cảm nắng, thì đồng bạc mầu đồng.

    Nếu bị cảm lạnh, thì đồng bạc mầu đen, càng cảm lạnh nặng càng đen.

    Nếu bị cảm gió nữa thì đồng bạc mầu đen nhánh có sắc xanh.

     Nếu vừa cảm nắng vừa cảm lạnh, thì đồng bạc có cả hai mầu.

         1/ Tùy trường hợp nặng nhẹ, có thể đánh từ 4 trứng trở lên. Bình thường mỗi lần đánh khoảng 4-5 trái là được. Để tránh bị lạnh trở có thể đánh đầu, ngực và lưng trước, rồi mặc áo, che khăn hay đắp chăn, sau đó mới đánh tới phần dưới của thân thể. Nếu muốn đánh một lần cho cả phía trước hay phía sau, thì lấy chăn đắp phần thân thể đã đánh rồi hay chưa đánh.

         2/ Đặc biệt là trường hợp 5 và nhất là 15, có khi phải đánh tới 40-50 hay hàng trăm cái trứng. Nghĩa là đánh làm nhiều lần, cho tới khi nào cảm thấy người dễ chịu, khỏe khoắn, da dẻ hồng hào trở lại thì thôi.

         3/ Trẻ em bị cảm (đặc biêt các em nhỏ) chỉ nên đánh cảm bằng trứng. Trường hợp các em được vài tháng, nếu sợ bỏng da, có thể đánh cảm bên ngoài áo cũng được. Nhưng nếu bọc trứng trong một khăn dầy vừa đủ sẽ không sao.

         4/ Cũng có thể để nguyên vỏ trứng, để có nhiều sức nóng hơn, nhưng phải dùng loại khăn rửa mặt hơi dầy, để khỏi bị vỏ trứng làm xước da.

         5/ Đánh cảm bằng trứng hơi tanh. Nhưng sau đó không được tắm. Chỉ nên dùng lotion hay chút dầu thơm pha chút nước nóng, nhúng khăn lau sơ người thôi.

         6/ Đặc biệt trường hợp số 15 và khi bị thương hàn, tức cảm lạnh ngấm tới xương, thì phải đánh cảm bằng trứng và đồng bạc (vì cạo gió, bấm huyệt thoa bóp chỉ bớt chứ không khỏi).

         7/ Để tẩy đồng bạc bị đen, thì lấy một mảnh giấy bạc bỏ trong một cái bát, bỏ đồng bạc vào rồi đổ nước đang sôi lên, hay mau hơn nữa là hơ trên lửa, đồng bạc sẽ trắng trở lại ngay.

         8/ Cách mua hay đặt đồng bạc đánh cảm:

    – Ai có thân nhân nhân ở Việt Nam có thể nhờ họ đặt cho mươi đồng bạc đánh cảm tại các tiệm bán vàng bạc (mỗi đồng khoảng 5-10 US$ làm hình bầu dục theo hình trái trứng là tiện nhất, vừa dùng để đánh cảm vừa dùng để cạo gió rất tốt)

    – Dễ nhất là vào Internet để mua và trả qua credit card ngay tại Mỹ. Họ sẽ gửi tới tận nhà. Mấy gia đình chung nhau, vì mỗi sét có 20 đồng 1 dollar lớn và dầy. Đồng 1 dollar lớn này có thể đánh được 2-3 trứng mới đen hết đồng bạc.

    Silver Rounds Medaillon ** 999 Pure Silver One Ounce

    htttp://www.goldmastersusa.com/silvercoins.asp

    6) Giác, lẩy (thường phức tạp hơn, vì cần có bộ đồ nghề và không công hiệu bằng các cách kể trên, vì chỉ hạn chế vào một số nơi có bắp thịt).

         – Giác bằng alcool hay rượu mạnh, nếu không khéo có thể bị bỏng da.

         – Giác bằng hơi tránh được nguy hiểm này, nhưng phải có bộ đồ nghề.

         – Nếu biết lẩy có thể nặn máu bầm ra, nhưng phải cẩn thận để không bị nhiễm trùng.

    7) Uống trà ớt Cayenne

       Một trong các cách trị cúm, cảm lạnh đơn sơ là uống trà bột ớt Cayenne với nước nóng. Ban đầu chưa quen cay nên pha ¼ muỗng cà phê, rồi tăng dần cho tới 1 muỗng bột ớt. Ngày uống 3 lần, hay hơn nếu cần.

       Khoa dược thảo ngày nay cho biết ớt chứa rất nhiều vitamine A,B,C,G,E, và rất giầu calcium, phosphorus và sắt. Do đó nó có khả năng nuôi dưỡng bồi bổ cơ thể và trị bệnh cao. Nó không chỉ chữa cảm cúm, đánh tan đờm, thông nghẹt thở, làm toát mồ hôi, mà còn giảm viêm họng và viêm amidan, hạ cholesterol và giảm Triglycerides cao.

       Một cách đặc biệt ớt là thuốc bổ hỗ trợ tim mạch, lọc máu, kích thích toàn bộ hệ thống cơ thể, gia tăng sức cho máu, dẫn máu tới tim và mọi cơ phận trong cơ thể, giữ cân bằng cho máu lưu chuyển. Rượu ớt có khả năng tác động mạnh và rất nhanh trên tim mạch, nên giúp tăng cường, củng cố, chữa trị các chứng bệnh về tim, và nhất là có khả năng cứu sống những người bị nhồi máu cơ tim, đứng tim, và chết đuối. Bơm hay đổ vào miệng, bên dưới lưỡi bệnh nhân 1-15 muỗng cà phê rượu ớt, lập tức các cục máu đông tan loãng, kinh mạch được đả thông, hết tắc nghẽn và tim đập trở lại ngay. Đây là điều đã xảy ra cho nhiều người bị đứng tim và bác sĩ tuyên bố là đã chết da chuyển sang mầu xanh, không còn cứu được nữa. Đây cũng là điều đã xảy ra cho người chết đuối da đã thâm tím. Khi được xịt hay đổ rượu ớt vào miệng, chỉ chốc lát sau họ tỉnh lại.  

       Ớt không chỉ làm tan các cục máu đông, chống xơ vữa động mạch hay xơ cứng động mạch, vì làm mềm mở rộng thành mạch, tăng sức mạnh cho tim, làm sạch bên trong thành mạch của hệ tuần hoàn, chống suy tim xung huyết, và loạn nhịp tim, mà còn chống xuất huyết và cầm máu rất nhanh và công hiệu, bằng cách giội rửa vết thương với rượu ớt và đắp bột ớt Cayenne lên vết thương.

       Ớt cũng gia tăng chức năng não bộ, gia tăng lưu thông máu đến vùng đầu và não bộ, chống lại chứng nhức nửa đầu (migraine headache) và nhức đầu chùm (cluster headache).

       Ngoài ra, ớt cũng là thuốc sát trùng, giúp loại các tác nhân gây bệnh, giúp giảm đau, giúp trị chứng khó tiêu hóa và ợ nóng.  

       Khi bị cảm cúm, uống vài ly trà ớt người sẽ nóng ấm lên, hết ớn lạnh, mệt mỏi, đau nhức và ngủ ngon.

       Trái với điều chúng ta tưởng nghĩ, ớt cũng có thể chữa bệnh loét bao tử và bệnh trĩ, vì chữa lành các vết thương và viêm, khiến cho các cơ bắp của hậu môn co giãn trở lại dễ dàng. Bác sĩ Christopher đã tự chữa bệnh trĩ bằng rượu ớt.

       Bạn có thể mua ớt bột Cayenne tại các quán bán thực phẩm và đồ gia vị. Nếu là ớt bột Cayenne, thì pha 60 gram ớt với 1 lít rượu trắng hay vodka 40-50 độ C , hoặc cồn 75-90%, trong 14 ngày, sau đó pha thêm  một lít nước cất nữa nếu là cồn. Nhưng bạn cũng có thể mua ớt về và tự pha chế lấy. Tốt nhất là trộn lẫn nhiều loại ớt khác nhau, mua loại càng cay càng tốt. Ớt Cayenne có 40.000 độ cay, nhưng có những loại cao hơn như Habanero, African bird, Jalpero lên đến 90.000 và loại cay nhất là 270.000. Độ cay càng cao, hiệu qủa tác động càng tốt.

       Xay ớt ra và ngâm với rượu trắng hay vodka 40-50 độ, ¼ ớt, ¾ rượu, thỉnh thoảng lắc đều lên và để trong chỗ tối. Sau hai 14 ngày lọc bã, để có thuốc sẵn trong nhà hay ruôn vào lọ nhỏ mang theo trong xe hoặc trong xách tay cho các trường hợp cần dùng, đặc biệt để cấp cứu những người bị nhồi máu cơ tim.

V.  Phòng bệnh hơn chữa bệnh

       Vì cảm lạnh có thể gây ra các hậu qủa nguy hại tới các cơ phận trong người như thế nên chúng ta phải cẩn thận.

         1/ Luôn mặc ấm áp khi đi làm hay đi lễ ban sáng và về nhà lúc chiếu tối.

         2/ Đầu đội mũ, trùm khăn.

         3/ Giữ hai vai, vùng thận và chân ấm (đi vớ, cả khi ở trong nhà).

         4/ Khi có các triệu chứng kể trên, cứ áp dụng mấy cách chữa bệnh trên đây của ông bà cha mẹ, trước khi đi khám bác sĩ.

       Trong các năm qua tôi đã từng chữa bệnh cho hằng trăm người và đoán bệnh ít khi sai. Thí dụ một người bị tiêu chảy suốt 3 năm đi khám bác sĩ tại nhiều nhà thương khác nhau và uống bao nhiêu thuốc nhưng không khỏi. Các bác sĩ không tìm ra lý do. Sau khi cạo gió bụng, lưng và ngực, bệnh tiêu chảy dứt ngay. Một người khác ăn lương tàn tật 2 năm vì không thể giơ hai tay lên được và đau nhức không thể lái xe được. Đi khám tại nhiều nhà thương nhưng các bác sĩ không biết bệnh gì, chỉ cho uống thuốc giảm đau và đoán là thần kinh bị hư nên đề nghị mổ. Sau khi cạo gió hai cánh tay và lưng xong là hết đau nhức và hai tay cử động bình thường ngay lập tức. Một người khác nữa bị đau đầu gối 3 tháng, đi khám các bác sĩ, chiếu điện nhiều lần cũng như uống nhiều thứ thuốc, mà không hết đau nhức. Bác sĩ nói thần kinh bị hư, phải mổ. Cạo gió mấy phút là hết đau nhức ngay.

       Thế mới biết rất nhiều trường hợp đau nhức là do cảm lạnh. Vì vậy trước khi đi bác sĩ hay vào nhà thương, chúng ta nên áp dụng cách chữa bênh của ông bà cha mẹ, vừa dễ dàng, vừa rẻ tiền lại rất khoa học và công hiệu tức khắc, giúp giữ gìn sức khỏe và nhất là khỏi bị tàn tật oan.

LM Hoàng Minh Thắng

 

by Tháng Tám 31, 2012 2 comments Tài liệu TKNăng
ĐƯỜNG RUỘT: NUÔI DƯỠNG hay NHIỄM ĐỘC Bạn?

ĐƯỜNG RUỘT: NUÔI DƯỠNG hay NHIỄM ĐỘC Bạn?

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/08/perfect-colon.jpg

Dr. Christopher’s School of Natural Healing

       ĐƯỜNG RUỘT NUÔI DƯỠNG HAY NHIỄM ĐỘC BẠN?

          Thực tế hơn 90% mọi đau ốm bệnh tật trong cơ thể của con người là do táo bón nơi đường ruột gây ra. Khi các túi ruột gìa đầy chất thải cũ, chất độc dơ từ đó thấm vào máu và đi tới các cơ quan trong cơ thể gây ra các vấn đề cho sức khỏe.

         Ví dụ, trường hợp đau thần kinh tọa: thường là viêm dây thần kinh. Bệnh nhân có cảm giác đau khác thường ở đùi và chân, dọc theo dây thần kinh, đôi khi thấy đau ở cơ bắp chân. Đau nhức thường xuyên, có lúc đau buốt.

         Để thuyên giảm nhanh cơn đau, thoa bóp vùng xích ma (sigmoid) sau khi dùng vài tách thảo dược bổ đường ruột đặc biệt. Trường hợp nghiêm  trọng, bơm nửa lít trà lạnh catnip vào ruột gìa. Chỉ dùng đủ để trà thụt rửa được giữ lại trong thời gian thoa bóp. Cũng dùng thoa bóp phản xạ học vùng ruột ở lòng bàn chân, theo chiều kim đồng hồ, từ kết tràng lên, qua kết tràng ngang, kết tràng xuống, đến kết tràng xích ma, thoa bóp nhiều ở vùng xích ma và ruột thẳng trên lòng bàn chân (xem đồ hình).
 
         Một phụ nữ bị đau vai nặng tới nỗi không nhấc cánh tay lên được trong 3 ngày. Cô chỉ ngồi trên ghế, đau dữ dội. Sau ba ngày, chiụ không nổi, vào giữa đêm người nhà gọi Dr. Christopher đến giúp. Để nhanh chóng giảm đau cho cô, bác sĩ cầm bàn chân phải, bắt đầu bấm vào huyệt của kết tràng lên, gần kết tràng ngang, rồi thoa bóp. Cô la lên vì đau khi bác sĩ bấm vào huyệt này. Cô bị đau nơi huyệt này còn hơn chỗ đau nơi vai. Ngay khi vùng phản xạ nơi chân vừa hết đau, thì cô cũng hết đau vai. Cô giơ tay lên, vung tay thể dục vai. Liệu pháp này mất gần một tiếng. Bác sĩ  giải thích nguyên nhân gây bệnh và hướng dẫn cô phải làm gì để bệnh không tái trở lại.

         Bằng cách làm việc trên những phản xạ thần kinh ở bàn chân (cho khu vực tắc nghẽn ruột kết) – túi thừa lớn chứa phân lối rẽ từ kết tràng lên sang kết tràng ngang được thoát ra. Độc tố không còn qua máu dẫn đến vai nữa. Hết đau. Đây chỉ là sự thuyên giảm tạm thời, vì các vùng suy yếu sẽ lại chất đầy độc tố lại trong thời gian ngắn khi thực phẩm tạo chất nhầy được ăn lại, và cái đau sẽ trở lại.

         Để chữa tận gốc, người ta phải tẩy sạch vùng ruột, rồi nuôi cho ruột khỏe mạnh với trợ giúp thảo dược và các loại thực phẩm bổ dưỡng thích hợp, như Mẹ Thiên nhiên dự định.
 
         Chúng tôi nói về táo bón đặt trọng tâm nơi đường ruột. Táo bón nơi đường ruột đi ngược vào trong cơ thể đến nỗi các tĩnh mạch, động mạch, bạch huyết, và ngay cả các tế bào của cơ thể, trong tình trạng “táo bón, trì trệ”. Khi đến mức độ cao, táo bón gây ra nhiều bệnh và đau nhức. Tại sao không dành một vài phút để tìm hiểu hoạt động của đường ruột cách trọn vẹn?

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/08/colon.jpg

TÁO BÓN

         Triệu chứng: Chức năng của nhu động ruột bị sai lệch khi phân trở nên đặc và khó ra ngoài thường xuyên. Tình trạng này do ăn thực phẩm bị khử chất khoáng và chế biến cao độ, đời sống căng thẳng vội vã, ăn uống vội vàng, và thiếu vận động. Khi chất độc ở trì trệ trong đường ruột gìa, hệ thống trở nên ô nhiễm với hơi độc làm tắc nghẽn và kích thích các cơ quan chung quanh, gây ra chất dính và những căn bệnh khác. Một người cần đi ngoài thường xuyên như các bữa ăn đều đặn. Bình thường là 3 lần một ngày, sáng khi thức dậy, sau mỗi bữa ăn chính, và một lần trước khi đi ngủ. Như vậy 3 tới 5 lần đi ngoài một ngày là bình thường. Bất cứ lúc nào phân thải ra có dạng hoặc cứng, có nghĩa là có nhiều chất nhầy vẫn còn trong cơ thể. Việc đi ngoài tốt nhất là đi dễ dàng. Không phải là ở dạng lỏng như khi tiêu chảy hay bệnh lỵ.

         Có nhiều cách để biết người ta làm việc trên “hiệu qủa”  của táo bón và chỉ ít người làm việc trên nguyên nhân. Nhiều loại thuốc nhuận tràng trên thị trường hiện nay chỉ tác dụng trên hiệu qủa tạm thời, sau đó mất dần hiệu lực, nên cần đổi qua loại khác mạnh hơn. Cứ tiếp tục như vậy, và gia tăng theo tuổi tác, cho đến khi thuốc nhuận tràng cần thiết luôn để đẩy phân ra ngoài. Tất cả những loại này dần dần làm cho đường ruột yếu đi và không thể hoạt động khi không được trợ giúp.

         Vài tuần trước, một bà đến với Dr. Christopher trong khi bác sĩ diễn thuyết ởTexas. Bà nói bà rất vui mừng vì đã tìm ra được công thức đường ruột chữa tận gốc của bác sĩ. Bà kể rằng bà đã tốn $380 để tẩy lọc đường ruột. Phim chụp X-Quang cho thấy đường ruột bà rất sạch, nhưng khi bà bắt đầu ăn uống như thường lệ lại, vấn đề cũ tái trở lại. Đúng vậy, đường ruột sạch, nhưng cơ ruột yếu, mệt mỏi, bệnh hoạn vẫn còn đó, như lúc trước, không tiến triển gì cả. Tẩy lọc đường ruột chỉ nhắm vào phần “ngọn” mà không vào phần “gốc”, sẽ không đạt kết qủa.

         Một lần, sau khi nhìn vào con ngươi của mắt một thanh niên để chẩn bệnh, Dr. Christopher hỏi anh mấy ngày mới đi ngoài một lần, anh trả lời rằng một ngày hai lần. Bác sĩ ngạc nhiên vì nếu anh đi ngoài ngày hai lần thì không thể bị táo bón nặng như con ngươi anh cho biết. Bác sĩ hỏi thêm thì ra anh luôn cần phải bơm thuốc (enema) mỗi lần đi ngoài, nếu không, không đi được.

         Sau một thời gian theo chế độ ăn kiêng không chất nhầy, với nhiều gạo lức, chất xơ từ rau qủa, đường ruột sẽ khỏe mạnh và thải phân ra ngoài đều đặn. Nhưng vì có qúa nhiều lớp chất nhầy chồng chất nơi thành ruột, tốt nhất nên dùng các dược thảo đặc biệt để xây dựng lại, làm khỏe mạnh lại đường ruột. Trong nhiều năm, chúng tôi đề nghị công thức Đường ruột Lower Bowel đã cho hàng ngàn người kết qủa tốt đẹp.

         Công thức bồi bổ đường ruột Lower Bowel là thực phẩm điều chỉnh đường ruột. Ruột của mỗi người có các chuyển động không giống  nhau nên liều lượng gia giảm khác nhau. Thời gian đầu, uống ngày 3 lần, mỗi lần 1 viên, rồi điều chỉnh liều lượng cho phù hợp. Nếu phân lỏng qúa, thì giảm bớt lại. Nếu phân cứng và khó đi, tăng liều lượng lên cho đến khi phân mềm lại (trong trường hợp táo bón nặng, bạn có thể dùng đến 40 viên trong một ngày, vì những thảo dược của công thức chỉ là thực phẩm chức năng không có hại gì cho bạn cả). Sau khi bạn đã thải ra ngoài cách dễ dàng và nhiều rồi, dần dần giảm liều lượng lại. Nhưng đừng ngưng uống tiếp công thức đường ruột để bạn hưởng lợi ích tiếp tục là làm cho cơ ruột hoàn toàn khỏe mạnh, tới lúc có khả năng tự đào thải ra ngoài dễ dàng ngày đôi ba lần. Trong đa số các trường hợp, vì chế độ ăn uống không đúng, nhu động ruột không hoạt động, cần 6 đến 9 tháng với hỗ trợ của thuốc bổ đường ruột Lower Bowel để tái xây dựng.

         Một trong những lỗi lớn nhất của con người là không uống đủ nước để bù lại nước mất đi qua tiểu tiện, đi ngoài, hít thở, mồ hôi, v.v. Thêm vào với nước rau và trái cây, chúng ta nên uống một ounce (30 ml) cho một pound (450 g) thể trọng. Một người nặng130 pounds(58 kg) cần uống130 oz nước, tương đương với 4 lít nước mỗi ngày. Đây là hỗ trợ tốt để đi ngoài được dễ dàng.

         HỎI: Có cách nào có thể loại trừ viêm khớp vĩnh viễn thay vì chỉ tạm thời giúp giảm đau không?

         ĐÁP: Có. Nhiều người đã hết viêm khớp vĩnh viễn. Khi chúng ta nói về viêm khớp (arthristis), chúng ta ta chỉ nói tiếng chung thông thường. Thực ra, có hơn 40 dạng khác nhau của bệnh này. Tất cả bắt nguồn từ tình trạng nhiễm độc tố nơi cơ thể. Muốn chữa trị cần phải tái xây dựng toàn cơ thể sao cho cơ thể được thanh lọc không còn độc chất nữa, cần thiết nhất là xây dựng lại và tẩy lọc đường ruột. Điều không thể tránh được là khi chỗ viêm khớp bị ứ tắc trầm trọng, thì sự cứng nhắc và đau nhức càng tệ hơn. Việc phải làm là: (1) làm sạch đường ruột, (2) tẩy độc cơ thể bằng cách làm sạch dòng máu xấu, và có được dòng máu tốt, khỏe mạnh để đem chất dinh dưỡng đến vùng bệnh và đưa chất độc ra ngoài. Việc này được thực hiện bằng cách uống trà lọc máu, có lượng đồng (copper) cao, như Burdock Root, Ephedra (Brigham Tea), Chaparral, công thức Viêm khớp (arthritis formula) và công thức Lọc máu (Blood Stream formula). Uống một tách trà, ba lần mỗi ngày, sáu ngày một tuần, tuần này sang tuần kia cho đến khi không còn triệu chứng nào nữa. (Chú ý rất quan trọng: luôn luôn dùng nước cất – distilled water – để pha trà!) Tốt nhất là thay đổi loại trà cứ mỗi 6 tuần, rồi trở lại loại trà lúc đầu. Hiệu qủa của việc thay đổi các loại trà, chúng tôi nhận thấy qua bệnh nhân trong nhiều năm, đã tăng tốc tiến trình chữa lành. Mỗi tách trà càng thêm lợi ích khi thêm 6-10 giọt tinh chất Lobelia.

         Ớt cần uống 6 ngày một tuần, uống đều trong các tuần của chương trình. Ớt, cũng như các thảo dược khác, là thực phẩm chứ không phải là thuốc. Tăng dần lượng ớt lên tới một thìa cà phê ớt bột, ba lần một ngày.

         Giấm táo và blackstrap molasses cũng hữu ích. Dùng một thìa xúp mỗi pha trong ly nước cất ba lần mỗi ngày. Uống thêm một thìa xúp hay hơn dầu mầm lúa mì (wheatgerm oil) ba lần một ngày.

         Hãy nhớ rằng uống không dưới 4 lít nước cất cho người nặng60 kg (130 pounds) hay uống nhiều hơn, mỗi ngày (uống nhiều hay ít hơn tùy theo thể trọng1 oz nước cất cho1 pound thể trọng).

         Đối với khớp hay vùng đau nặng, dùng trà Complete Tissue & Bone Formula (công thức phục hồi Mô & Xương). Tác dụng của công thức này như sau:

         -Oak Bark làm cho vùng đau được khỏe mạnh lại, nó cũng có lượngcao Potassium Chloride để giữ các tơ huyết (fibrin) chuyển động và không cho phép các chất thải tích tụ thêm.

         -Mullein và Lobelia hoạt động trên các tuyến và hệ bạch huyết để giữ vùng đau được sạch và sẵn sàng đưa các chất thải ra ngoài.

         -Wormwood làm giảm đau.

         -Scullcap giữ cho tủy sống sẵn sàng nhanh lẹ và hoạt động cách trôi chảy để hỗ trợ sự vận động của cơ thể.

         -Rễ Comfrey là tế bào tái tạo, giúp cho tế bào tốt phát triển nhanh đồng thời đẩy tế bào chết và các chất dơ tích tụ ra ngoài.

         -Walnut Bark có lượng iodide cao, là một trong một số thảo mộc đặc biệt làm sạch nấm và có lượng Potassium Chloride cực cao cho máu và hệ bạch huyết, Potassium Sulfate cho da và màng nhầy, và Potassium Phosphate chất dinh dưỡng cho não bộ và thần kinh.

         -Rễ Gravel làm tan các chất vôi vô cơ (từ nước máy và thực phẩm chế biến, v.v.) và tạo chỗ cho chất vôi hữu cơ lấy từ Comfrey, Oak Bark, và vài thảo dược khác dùng trong công thức này).

         Dùng trà Công thức phục hồi Mô & Xương để chườm nóng (fomentation) trên vùng đau, trong trường hợp nặng, theo tiến trình chườm nóng như trong “Chương trình cho bệnh nan y” của Dr. Christopher. Uống trà công thức này, một tách hay nhiều hơn hàng ngày sẽ có kết qủa tốt.

         Để cho trà chườm nóng mạnh hơn, nấu dưới độ sôi cho cạn xuống còn phân nửa (độ mạnh gấp 3 lần) hay nấu cạn còn ¼ (độ mạnh tăng gấp 7 lần). Nếu bạn muốn uống trà đậm đặc này, hãy cho thêm nước cất vào. Uống một hay nhiều hơn tách trà này mỗi ngày.

         Còn nhiều phương cách hỗ trợ khác nữa.

         Không bao giờ chườm nóng khô (dụng cụ dùng điện) cho viêm khớp, luôn dùng chườm ẩm như dùng chai nước nóng trên khăn ẩm, v.v. Chườm nóng khô sẽ làm cho các chất khoáng vô cơ cứng lại, trong khi chườm nóng ẩm sẽ làm phân tán chúng.

Ghi chú: Trang mạng tongdomucvusuckhoe.net không nhằm mục đích thương mại,  quảng cáo cho riêng ai, tiếp thị cho bất kì công ty hay sản phẩm nào.

               Chúng tôi chỉ phục vụ qua việc cung cấp thông tin về nhiều vấn đề sức khỏe; và giới thiệu những nguồn đáng tin cậy nhất.

Linh Mục Hoàng Minh Thắng và Nhóm Tông Đồ Mục Vụ Sức Khỏe

 https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/08/rainbow.gif

by Tháng Tám 29, 2012 Comments are Disabled Bệnh & Chương trình, Đề tài liên quan