Cuộc đời Chúa Giê-su (Maria Valtorta)

Bài thơ của Con Người – Thiên Chúa (Maria Valtorta – Quyển 1)

Bài thơ của Con Người – Thiên Chúa (Maria Valtorta – Quyển 1)

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/12/Grande-1852-lot-de-10-chretiens-magazine-maria-valtorta-octobre-20121.jpg


”Bài thơ của Con Người – Thiên Chúa”

hay ”Tin Mừng như đã được vén mở cho tôi”:
một tác phẩm độc nhất vô nhị

       ”Bài thơ của Con Người – Thiên Chúa” hay ”Tin Mừng như đã được vén mở cho tôi” của bà Maria Valtorta là một tuyệt tác độc nhất vô nhị trong nền văn chương của Kitô giáo. Tuy không được – hay đúng hơn chưa được – Giáo quyền công nhận là ”mạc khải”, nhưng từ năm 1966 không còn bị cấm đọc và phổ biến nữa.

       Các thị kiến không chỉ bao gồm toàn cuộc đời Chúa Cứu Thế, mà còn trình thuật quãng đời thơ ấu của Mẹ Maria. So sánh với các tác phẩm được mạc khải khác, tác phẩm của bà Maria Valtorta đầy đủ nhất và rất chính xác trong tương quan với bốn Phúc Âm. Các thị kiến đã được viết lại ngay lập tức và một cách trực tiếp sau khi được vén mở.

       Các trình thuật rất trung thực với Phúc Âm, và giúp người đọc hiểu bối cảnh các giáo huấn của Chúa Giêsu với rất nhiều chi tiết súc tích, sống động hấp dẫn. Đặc biệt tác phẩm bao gồm các hiểu biết sự kiện lịch sử, địa lý, trắc địa, địa chất, khoáng chất và phong cảnh chính xác về Thánh Địa, khiến cho các chuyên viên kinh thánh và các học giả phải kinh ngạc.

       Bạn không bị bắt buộc phải tin, vì đây không phải là tín lý. Nhưng cũng đừng bỏ lỡ một cơ hội đọc một tác phẩm hay, và đừng nản lòng vì mấy chục trang dẫn nhập khô khan. Hãy kiên nhẫn vượt thắng nó và hãy đọc tác phẩm với tâm trí rộng mở, không thành kiến, đơn sơ, chân thành, bạn sẽ nếm hưởng được tình yêu bao la của Thiên Chúa Ba Ngôi, sẽ yêu mến Chúa Giêsu, Mẹ Maria, Cha Thánh Giuse nhiều hơn và xót thương nhân loại sâu xa hơn. Và cuộc sống của bạn sẽ được biến đổi.

       Roma 15-8-2012
Lễ Đức Mẹ hồn xác lên Trời
Linh mục Giuse Hoàng minh Thắng
Giáo sư Thánh kinh Đại học Giáo hoàng Urbaniana Roma (1991-2011)

Bấm vào đây để download nguyên bài: Bai tho Con Nguoi Thien Chua Quyen 1

http://i646.photobucket.com/albums/uu185/vanhoai1111/th_706423obhm2yl2at.gif

GHI CHÚ: Để dễ đọc cả quyển sách, xin bấm vào biểu tượng https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/12/mui-ten.png phía trên bên phải trong file PDF .

[viewpdf width=”591px” height=”795px”]tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/12/BÀI-THƠ-CỦA-CON-NGƯỜI-THIÊN-CHÚA-Quyển-1.pdf[/viewpdf]

by Tháng Mười Hai 11, 2012 Comments are Disabled Cuộc đời Chúa Giê-su (Maria Valtorta), Tâm Linh
Dụ ngôn Mười Điều Răn

Dụ ngôn Mười Điều Răn

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/11/10-dieu-ran.jpg

DỤ NGÔN MƯỜI ĐIỀU RĂN

          Để làm cho các con hiểu rõ mười điều răn là gì và việc tuân giữ nó quan trọng chừng nào, Thầy nói cho các con dụ ngôn này:

          Một người cha của một gia đình kia có hai người con trai, ông yêu hai người như nhau, và ông muốn trở nên ân nhân của hai người theo cùng một cách. Người cha này, ngoài nơi mà ông ở với các con ông, ông còn là chủ những sở hữu khác, nơi ông dấu những kho tàng lớn lao. Hai người con biết là có kho tàng này, nhưng họ không biết con đường nào để tới đó. Qủa vậy, vì những lý do đặc biệt, người cha không tiết lộ với các con ông con đường để tới đó, và như vậy đã từ nhiều năm rồi. Nhưng vào một lúc kia, ông gọi hai con trai lại và nói với họ: “Bây giờ đã đến lúc thuận tiện để các con biết kho tàng mà cha các con để dành cho các con nó ở đâu, để các con tới đó khi cha bảo các con. Trong khi chờ đợi, các con hãy nghe cho biết con đường và các dấu hiệu mà cha đã đặt ở đó, để các con không bị lạc mất con đường trúng. Vậy hãy nghe cha đây: Các kho tàng không ở trong đồng bằng, nơi nước đọng, nơi đại nhiệt thiêu đốt, nơi bụi bặm làm hư tất cả, nơi gai góc và các cây mâm xôi làm ngộp rau cỏ thảo mộc, và là nơi kẻ trộm có thể tới ăn cắp cách dễ dàng. Các kho tàng ở trên đỉnh ngọn núi cao kia, cao và gập ghềnh. Cha đã để nó ở đó, tận trên đỉnh, và chúng đang chờ các con. Ngọn núi có nhiều lối đi, cả đến có rất nhiều, nhưng chỉ có một đường là tốt. Các đường khác, một số thì tận cùng ở một vực thẳm, số khác thì dẫn vào một cái hang không có lối ra, số khác nữa thì tới những hố sâu nước bùn, số thì tới các hang rắn độc, số thì tới miệng núi lửa đầy lưu huỳnh cháy nóng, số thì tới những thành lũy không thể vượt qua được. Trái lại, con đường trúng thì mệt nhọc, nhưng dẫn tới đỉnh, không bị gián đoạn bởi các vực thẳm hay các chướng ngại khác. Để các con có thể nhận ra nó, cha đã để suốt dọc đường, tại những khoảng cách đều nhau, mười cái bia đá trên đó có khắc các chữ này: ‘Tình yêu, Vâng phục, Chiến thắng’, để hướng dẫn các con. Hãy đi theo đường đó và các con sẽ tới chỗ kho tàng. Rồi cha, bởi một con đường khác mà chỉ một mình cha biết, cha sẽ đến để mở các cửa cho các con để các con được sung sướng”.

          Hai người con chào cha. Ông nhắc lại bao lâu hai con trai ông còn nghe thấy: “Hãy theo con đường mà cha chỉ cho các con, vì sự lành của các con. Đừng để mình bị lôi kéo bởi các con đường khác, dù nó có vẻ như tốt hơn. Các con sẽ mất kho tàng và mất cha cùng với nó…”

          Đây, họ ở chân núi. Một bia đá đầu tiên được dựng ở dưới thấp, đúng vào chỗ bắt đầu con đường, ở giữa một loạt những con đường để lên núi theo đủ mọi hướng. Hai anh em bắt đầu leo lên trên con đường tốt. Nó vẫn còn rất tốt lúc bắt đầu, mặc dầu không một chút bóng mát. Từ trên trời, mặt trời chiếu thẳng xuống và dìm ngập nó trong ánh sáng và sức nóng. Đá có mầu trắng ở nơi nó được đục vào. Bầu trời trong ở bên trên đầu họ. Sức nóng của bầu trời bao phủ các chi thể họ. Đó là những điều hai anh em nhìn thấy và cảm thấy. Nhưng vẫn còn được kích thích bởi thiện chí, bởi các kỷ niệm về người cha và về các lời dặn dò của ông, hai người vui vẻ đi lên phía đỉnh. Đây, cái bia đá thứ hai… rồi cái thứ ba. Con đường càng lúc càng mệt, đơn độc, cháy nóng. Họ cũng không nhìn thấy các con đường khác là những đường có cỏ, có cây, có nước trong, nhất là nó ít dốc, vì nó thoai thoải từ từ, và được làm trên nền đất không có đá.

          -Cha chúng ta muốn cho chúng ta đi tới chỗ chết! – một người con nói khi tới cái bia đá thứ bốn, và anh ta bắt đầu bước chậm lại. Người con kia khuyến khích anh ta tiếp tục cuộc hành trình bằng cách nói: “Người yêu chúng ta như các thứ ngã của người và còn hơn nữa, vì người đã bảo toàn cho chúng ta một kho báu tuyệt vời như vầy. Con đường ở trong đá, không có quẹo ngang, đi thẳng từ dưới lên tới đỉnh, là chính ông đã đẽo. Những bia đá này, chính ông đã làm để hướng dẫn chúng ta. Anh ơi, hãy suy nghĩ: chính ông, một mình ông đã làm tất cả những điều này vì tình yêu, để tặng cho chúng ta, để làm cho chúng ta tới nơi không thể sai lầm và không nguy hiểm”.

          Họ lại đi. Nhưng các con đường đã bị loại bỏ ở phía dưới tiến lại gần con đường đục vào đá, và chúng càng hay lại gần hơn khi con đường dẫn tới đỉnh núi trở nên hẹp hơn. Và ôi, chúng đẹp đẽ, mát mẻ, có vẻ mời mọc chừng nào!…

          -Tôi rất muốn đi một trong các con đường kia. Có bao nhiêu con đường khác với con đường này để lên đỉnh núi – người anh trai không hài lòng nói khi tới bia đá thứ sáu.

          -Anh không thể nói vậy… Anh đâu có nhìn thấy là nó lên hay xuống.

          -Kia kìa, nó ở trên đó mà!

          -Anh dâu có chắc chỗ đó có phải là con đường này không. Hơn nữa, cha đã bảo là đừng bỏ con đường đúng.

          -Kẻ uể oải tiếp tục một cách miễn cưỡng. Đây, bia đá thứ bảy.

          Ôi! Với tôi, tôi bỏ đi thực sự đây!

          -Anh ơi, đừng làm vậy!

          Họ đi lên. Từ đây con đường thực sự rất khó. Nhưng đỉnh núi đã gần rồi…

           Đây, bia đá thứ tám, và một con đường đầy hoa chạy quanh ngay bên cạnh nó.

          -Ôi! Em thấy không? Con đường đó có lẽ không phải là con đường thẳng, nhưng rõ ràng là nó đi lên.

          Anh đâu biết đây có phải con đường đó không.

          -Có chứ! Anh nhận ra nó mà!

          Anh lầm đó.

          -Không, anh đi đây.

          -Đừng làm vậy. Hãy nghĩ tới Cha, tới các nguy hiểm, tới kho tàng.

          -Nhưng cầu cho chúng tiêu ma hết đi! Kho tàng mà làm gì nếu anh chết khi lên tới đỉnh? Đâu có nguy hiểm nào lớn hơn con đường này? Và đâu có sự thù ghét nào lớn hơn sự thù ghét của người cha đã chế diễu chúng ta bằng con đường này để làm cho chúng ta chết? Chào! Anh sẽ tới nơi trước em mà vẫn còn sống… – Và anh ta nhảy vào con đường kế bên, rồi biến mất trong lúc phát ra những tiếng kêu vui mừng sau các cây cho bóng mát.

          -Người em tiếp tục cách buồn rầu… Ôi! Con đường ở đoạn cuối thực là dễ sợ! Người bộ hành hầu không kham nổi nữa. Anh ta tựa như người say vì mệt mỏi, vì mặt trời! Tại bia đá thứ chín, anh ta đứng lại, thở hổn hển, tựa vào bia đá, đọc một cách máy móc các chữ được khắc ở trên. Rất gần đó có một con đường với bóng mát, nước và hoa đẹp… “Tôi sẽ đi vào đường đó chăng?… Nhưng không!   Không. Ở đây đã viết, và chính cha tôi đã viết: ‘Tình yêu, Vâng lời, Chiến thắng’.   Tôi phải tin vào tình yêu của Người, vào sự thật của Người, và tôi phải vâng lời để chứng tỏ tình yêu của tôi… Nào!… Cầu cho tình yêu nâng đỡ tôi…” Đây, bia đá thứ mười… Người bộ hành kiệt quệ, bị cháy bởi mặt trời, gù xuống để bước như ở dưới một cái ách… Đó là cái ách yêu thương và thánh thiện của sự trung thành, là tình yêu, sự vâng lời, mạnh mẽ, cậy trông, chính trực, khôn ngoan, tất cả… Thay vì dựa vào bia đá, anh ta ngồi bệt bên một chút bóng mát của tảng đá dựng trên mặt đất.   Anh cảm thấy như hầu chết. Từ con đường bên cạnh bay tới tiếng động của dòng suối và mùi cây rừng… “Cha ơi! Cha ơi! Hãy giúp con trong cơn cám dỗ này bằng thần trí của cha… Hãy giúp con trung thành tới cùng!”

          Từ xa, giọng nói vui vẻ của người anh: “Tới đây đi, anh chờ em. Ở đây là Thiên Đàng… Tới đi…”

          -Nếu em tới đó?… – Và anh ta kêu rất lớn: “Có đúng là người ta lên đỉnh được không?”

          -Đúng mà. Tới đi. Có một cái hành lang mát mẻ dẫn lên đó. Tới đi! Anh đã nhìn thấy đỉnh núi ở bên kia hành lang, ở trong đá.

          -Tôi tới? Tôi không tới?… Ai đến cứu tôi?… Tôi tới… – Anh chống tay để đứng dậy, và khi làm như vậy, anh quan sát thấy rằng các chữ được khắc không còn rõ nét như ở các bia đá đầu tiên: “Ở mỗi bia đá, các nét chữ trở nên mờ hơn…   Tựa như cha tôi mệt mỏi, phải khó khăn để khắc… Và… Coi này!… Ở đây cũng vậy, có cái dấu mầu nâu đỏ này, tôi bắt đầu nhìn thấy rõ từ bia đá thứ năm…   Nhưng ở đây nó làm đầy trong các khe của các chữ, và nó chảy xuống, để lại vết trên đá như dòng nước mắt đậm, giống như… máu…” Và với ngón tay, anh ta cào vào chỗ có một vết lớn như hai bàn tay. Và cái vết biến đi, để lộ ra những lời này, rõ như mới viết: “Cha yêu các con như vậy đó, cho tới đổ máu ra để dẫn các con tới kho tàng”.

          -Ôi! Ôi! Cha tôi! Và tôi, tôi đã có thể nghĩ tới không tuân theo mệnh lệnh của Cha sao? Xin tha, cha của con ơi, xin tha! – Người con gục vào bia đá để khóc, và lằn máu ở đầy trong các khe chữ tự mới lại, tươi bóng như hồng ngọc, và nước mắt trở thành đồ ăn đồ uống cho người con tốt, và sức mạnh… Anh đứng dậy… Vì tình yêu, anh gọi người anh rất mạnh, rất mạnh… Anh ta muốn kể điều khám phá của anh cho ông anh… tình yêu của cha, để nói với anh: “Hãy trở lại”. Nhưng không ai trả lời cả.

          Người thanh niên lại lên đường, hầu như lết bằng đầu gối trên đá nóng. Vì kiệt sức, thân xác anh thực sự tới mức, nhưng tâm hồn anh trong sáng. Đây, đỉnh núi… Và kìa, Cha!

          -Cha của con!

          -Con cưng!

          Người thanh niên lao mình vào lòng thân phụ. Người cha đón nhận anh và bao phủ anh bằng những cái hôn.

          -Con có một mình?

          -Vâng… Nhưng anh con sắp tới…

          -Không. Anh ấy không tới nữa. Anh đã bỏ con đường của mười bia đá. Anh đã không trở lại sau những tỉnh ngộ đầu tiên đã loan báo cho anh. Con muốn nhìn thấy anh không? Anh kia kìa, trong hố lửa… Anh cứng đầu trong tội. Cha sẽ còn tha thứ và còn chờ anh nếu sau khi nhận ra lỗi lầm, anh biết quay trở lại, và nếu dù có chậm trễ, anh ta cũng đi qua nơi mà tình yêu đã đi qua trước, trong khi chịu đựng tới nỗi đổ ra cho các con những thứ tốt nhất của máu người, cái đắt gía nhất ở nơi Người.

          -Anh đã không biết.

          -Nếu anh con đã nhìn với tình yêu những lời được khắc trên mười bia đá, thì anh đã đọc được ý nghĩa thực sự của nó. Con đã đọc được từ bia đá thứ năm, và con đã lưu ý anh ta khi nói: “Chỗ này chắc cha bị thương!” Và con đã đọc được nó ở bia đá thứ sáu, thứ bảy, thứ tám, thứ chín… luôn luôn rõ hơn, cho tới lúc con có cái trực giác muốn khám phá điều gì ở dưới lớp máu của cha. Con biết tên của cái trực giác này không? Sự kết hợp thực sự của con với cha. Các thớ thịt của qủa tim con hòa lẫn với các thớ thịt của qủa tim cha đã nhảy mừng và nói với con: “Ở đây mày sẽ có sự đo lường về cách thế người cha yêu mày”. Bây giờ con, kẻ có Tình Yêu, Vâng Lời, Chiến Thắng, hãy vào chiếm lấy kho báu và chính Cha tới muôn đời.

          Đó là dụ ngôn.

          Mười bia đá là mười giới răn. Thiên Chúa của các con đã khắc nó và đặt nó trên con đường dẫn tới kho báu đời đời, và Người đã khổ cực để dẫn các con vào con đường này. Các con đau khổ ư ? Thiên Chúa cũng vậy. Các con phải gắng sức với chính mình ư ? Thiên Chúa cũng vậy, và các con biết tới điểm nào không? Tới mức chịu đựng sự chia lìa chính mình Người và tự cố gắng để biết thực thể của loài người với tất cả những khốn nạn mà nhân tính mang theo với nó: sinh ra, chịu giá lạnh, đói khát, mệt nhọc và những chua cay, những xúc phạm, những thù ghét, những cạm bẫy, và sau cùng là cái chết bằng cách đổ hết máu Thầy ra để cho các con kho báu. Đó là điều Thiên Chúa chịu đựng khi xuống trần để cứu các con. Đó là điều Thiên Chúa trên Trời chịu đựng khi tự cho phép mình chịu đau khổ như vầy.

          Thực vậy, Thầy bảo các con rằng không một người nào, dù con đường về trời của họ lao nhọc tới đâu, có thể là con đường lao khổ hơn, đau thương hơn con đường mà Con Người đi từ Trời xuống đất, từ đất tới Lễ Hy Sinh, để mở các cửa của kho báu cho các con.

          Máu Thầy đã ở trong các bản của Lề Luật. Máu Thầy đã ở trên con đường mà Thầy vạch ra cho các con. Chính dưới làn sóng của máu Thầy mà cửa của các kho tàng mở ra. Chính bởi máu Thầy mà tâm hồn các con được tẩy rửa, được nuôi dưỡng, và được trở nên trong sạch và mạnh mẽ. Nhưng để cho nó không đổ ra cách vô ích, thì các con phải theo Lề Luật bất di bất dịch của mười giới răn.

          (Quyển 6, đoạn 144)

 “Bài thơ của Con Người-Thiên Chúa”

Viết bởi Maria Valtorta

Chuyển ngữ: Nữ tu Phạm thị Hùng CMR

 

by Tháng Mười Một 29, 2012 Comments are Disabled Cuộc đời Chúa Giê-su (Maria Valtorta)
Bài học tuyệt vời qua việc Sơn gỗ

Bài học tuyệt vời qua việc Sơn gỗ

 https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/11/son-go.jpg

           Cái lò lửa thô kệch của xưởng mộc được đốt lên sau một thời gian dài không dùng tới. Mùi chất keo sôi trong bát hòa lẫn với mùi đặc biệt của mạt cưa và dăm bào mới còn rơi ở chân bàn.

          Giêsu làm việc với cái cưa và cái bào. Người đang biến các mảnh gỗ thành các chân ghế hay ngăn kéo hoặc các vật dụng khác.

          Các đồ gỗ tầm thường của căn nhà nhỏ Nazarét đã được mang tới xưởng mộc: cái thùng nhồi bột cần sửa, một trong các khung cửi của Maria, hai cái ghế đẩu, một cái thang dùng ngoài vườn, một cái rương nhỏ, một cái cửa lò, tôi đoán vậy, bị gặm ở phía dưới, có lẽ bởi chuột.

          Giêsu làm việc để sửa những cái đã hư vì sử dụng hay vì thời gian.

          Tôma thì với tất cả dụng cụ nhỏ của nghề thợ bạc, chắc ông đã lấy ở giỏ của ông ra, cái giỏ mà ông để trên giường kê ở sát tường, cũng như giường của Zêlote. Ông làm việc với bàn tay nhẹ nhàng trên những lá bạc. Những lát của cái búa nhỏ mà ông đập trên cái đục, tạo ra những tiếng bạc tan biến mất trong tiếng động mạnh hơn của những dụng cụ làm việc mà Giêsu sử dụng.

          Thỉnh thoảng họ trao đổi vài lời. Tôma rất sung sướng được ở đó với Thầy và làm nghề thợ bạc của ông – qủa vậy, ông đã nói điều đó – Khi nghỉ đàm thoại, ông huýt sáo nho nhỏ. Thỉnh thoảng ông ngước mắt lên và suy nghĩ. Với vẻ trầm tư, ông nhìn đăm đăm vào bức tường ám khói của căn nhà.

          Giêsu quan sát ông và nói: “Tôma, con tìm hứng ở trên các bức tường đen này à? Đúng thực, cái đã làm cho nó có bộ mặt này là công việc lâu dài của một vị công chính. Nhưng Thầy không thấy rằng điều đó có thể cho người thợ kim hoàn một đề tài…”

          – Thưa Thầy, không. Thực sự, với các kim qúi, người thợ kim hoàn không thể làm cho sự nghèo khó thánh thiện trở nên thi vị…

          Nhưng với các kim loại, họ có thể bắt chước những thứ đẹp đẽ của thiên nhiên, làm cho vàng bạc trở thành cao qúi bằng cách dùng nó để làm ra các hoa lá có trong các thụ tạo. Con, con nghĩ tới những bông hoa, những chiếc lá này, và để nhớ lại hình dáng của nó, con ngồi bất động như vậy, mắt cắm vào các bức tường. Nhưng trong thực tế, điều con nhìn thấy là các khóm cây, các đồng cỏ của quê hương chúng ta, những cái lá nhẹ nhàng, những bông hoa giống như chiếc cúp hay các ngôi sao, hình dáng của các cộng và các lá…

          – Vậy con là thi sĩ, một thi sĩ hát với kim loại, những điều mà các nhà văn hát với tấm giấy da.

          – Đúng. Qủa vậy, thợ kim hoàn là một thi sĩ viết trên kim loại những vẻ đẹp của thiên nhiên. Nhưng công việc của chúng con, tuy  đẹp và nghệ thuật, nhưng không có giá trị như công việc khiêm tốn và thánh thiện của Thầy. Vì việc của chúng con phục vụ cho sự phù vân của người giầu, còn việc của Thầy phục vụ cho sự thánh thiện, cho nhà cửa, cho nhu cầu của người nghèo.

          – Tôma, anh nói rất hay – Simon Zêlote (Phêrô) nói khi xuất hiện trước cửa ăn thông ra vườn, trong bộ đồ ngắn, tay áo xắn cao, ở đàng trước có đeo một tấm tạp dề cũ, tay mang một hộp sơn.

          Giêsu và Tôma quay lại nhìn ông và mỉm cười. Tôma trả lời: “Đúng, tôi nói hay. Nhưng tôi muốn rằng có lần công việc của thợ bạc sẽ dùng để trang hoàng một… một cái gì tốt và thánh…”

          – Cái gì?

          – Một bí mật. Tôi nghĩ tới nó lâu rồi, từ hồi chúng ta ở Rama, và tôi đem theo mình những dụng cụ thợ bạc nhỏ của tôi và tôi chờ đợi cái giờ này… Còn công việc của anh, Simon?

          – Ôi! Tôi, tôi không phải là nghệ sĩ có tài như anh. Tôma ơi, đây là lần đầu tiên tôi cầm một cái cọ trong tay, và cái vật tôi sơn không được đẹp, mặc dầu tôi để hết thiện chí vào đó. Tôi cũng đã bắt đầu bằng những chỗ khiêm tốn nhất… để cho quen tay… và tôi bảo đảm với anh là sự vụng về của tôi sẽ làm con bé cười thoải mái. Tôi rất bằng lòng vì giờ qua giờ, nó đã sinh lại trong một đời sống trong sáng, và phải như vậy để xóa bỏ đi cái qúa khứ và làm lại nó hoàn toàn mới cho Thầy, Thầy nhỉ.

          – Nhưng có lẽ Valêria không chịu nhường – Tôma nói.

          – Ôi! Nhưng anh muốn sao? Việc có nó hay không có nó có gì quan trọng đối với bà. Bà ta giữ nó là để nó không lạc lõng trong thế giới. Và chắc chắn sẽ rất tốt là con bé được cứu vĩnh viễn, và trong tất cả, nhất là về tâm hồn, phải không Thầy?

          – Đúng vậy. Phải cầu nguyện rất nhiều cho việc này. Tạo vật này đơn sơ và thực sự tốt. Nếu được nuôi dưỡng trong chân lý, nó có thể cho rất nhiều. Nó nghiêng chiều theo bản năng tự nhiên về với Ánh Sáng.

          – Chắc chắn rồi. Nó chả có sự an ủi nào ở dưới đất… và nó tìm ở trên Trời. Tội nghiệp! Con, con tin rằng khi Tin Mừng của Thầy được rao giảng cho khắp thế giới, thì những kẻ đầu tiên đón nhận nó, và là số đông đảo nhất, sẽ là các nô lệ, những kẻ không có một an ủi loài người nào, họ sẽ dựa vào lời hứa của Thầy để tìm thấy…

          Và con nói, nếu chính con được cái vinh dự loan báo nó, con sẽ có tình yêu đặc biệt đối với những kẻ khốn nạn này…

          – Và con sẽ làm rất tốt, Tôma ạ – Giêsu nói.

          – Đúng. Nhưng anh làm sao để tới gần họ?

          – Ồ, Tôi sẽ làm thợ bạc cho các bà và… là thầy của các nô lệ của họ. Một thợ bạc có thể vào trong nhà một người giầu, hoặc các đầy tớ của họ tới nhà ông ta… và tôi sẽ làm việc… Hai kim loại: Kim loại dưới đất cho người giầu, kim loại tâm hồn cho các nô lệ.

          – Nguyện Thiên Chúa chúc lành cho chương trình của con, Tôma. Hãy kiên trì trong ý hướng này.

          – Thưa Thầy vâng.

          – Tốt. Thầy đã trả lời cho Tôma rồi, xin Thầy đi với con… để coi  công việc của con, và để bảo con cái con phải sơn bây giờ. Những cái tầm thường đã, vì con là đứa rất ít khả năng.

          – Chúng ta đi, Simon – và Người bỏ các dụng cụ lại để ra ngoài với Zêlote. Một lúc sau, họ trở lại, Giêsu chỉ cho ông chiếc cầu thang trong vườn: “Hãy sơn cái này. Sơn làm cho gỗ không thấm nước và bảo trì nó lâu hơn, lại nữa, nó làm cho đẹp hơn. Cũng giống như nhân đức bảo trì và tô điểm tâm hồn con người. Tâm hồn có thể thô kệch… nhưng khi được phủ bằng nhân đức, nó trở nên đẹp, dễ coi. Con thấy, muốn sơn cho đẹp và có hiệu qủa thực sự thì phải cẩn thận biết bao. Để bắt đầu, phải ý tứ lấy những gì cần để tạo thành nó. Phải biết cái đồ đựng không còn dính đất hay sơn cũ; phải có dầu tốt và chất mầu tốt, và quậy đều chúng cách kiên nhẫn, làm cho nó thành một hợp chất không qúa đặc, không qúa lỏng.

          Không được chán nản làm cho tới khi hòa tan hết những cục nhỏ bé nhất. Điều đó xong rồi thì phải lấy một cái cọ. Cái cọ phải không rụng lông. Nó phải không cứng qúa, không mềm qúa, phải sạch sẽ mọi chất mầu cũ. Trước khi sơn, phải cọ gỗ cho khỏi những chỗ sù sì, những vảy sơn cũ, bùn đất, tất cả. Rồi với bàn tay vững vàng một cách thứ tự, luôn luôn theo cùng một hướng, trét sơn ra một cách kiên nhẫn, với rất nhiều kiên nhẫn. Thực vậy, trên cùng một tấm gỗ, có nhiều loại phản ứng khác nhau. Ví dụ chỗ mắt gỗ thì sơn sẽ bóng hơn, nhưng sơn không dính tốt ở đó, vì gỗ ở chỗ mắt đẩy sơn ra. Trái lại, trên các chỗ gỗ mềm thì sơn dính ngay, nhưng thường ít bóng, và vì vậy có thể tạo ra những vết phồng hay những khe nhỏ… Vậy người ta phải sửa lại bằng cách sử dụng bàn tay một cách cẩn thận để trét sơn. Rồi trong những đồ gỗ cũ thì có những phần mới giống như cái bậc này, ví dụ vậy. Để cho người ta không nhìn thấy cái cầu thang tội nghiệp bị chắp vá, nhưng chỉ rất cũ, thì phải làm sao cho cái bậc mới cũng giống như các bậc cũ. Đó, vậy đó”.

          Giêsu cúi trên chân cầu thang, vừa sơn vừa nói những lời đó… Tôma đã bỏ cái đục của ông xuống để lại gần coi. Ông hỏi: “Tại sao Thầy lại bắt đầu sơn bậc dưới thay vì bậc trên? Làm ngược lại không hay hơn sao?”

          – Điều đó có vẻ thuận lợi hơn, nhưng lại không vậy. Vì thực sự bậc dưới hư nhiều hơn, và bị hư vì nằm trên đất, vậy phải sơn nhiều lần: nước thứ nhất, rồi nước thứ hai và nước thứ ba nếu cần… Và để không phải ở không thì trong khi chờ bậc dưới khô, vì nó còn phải sơn một nước nữa, ta sẽ sơn phần đầu, rồi phần giữa cầu thang.

          – Nhưng làm như vậy có thể bị dính quần áo vào và làm hư các phần đã sơn.

          – Làm một cách khéo léo thì ta không làm dính, cũng không làm hư cái gì cả. Con thấy không? Ta làm như vầy này: Ta vơ gọn quần áo lại và đứng hơi xa ra, không phải vì ghê tởm cái sơn, mà là để không làm hư sơn là thứ tế nhị, bởi vì mới sơn – và bây giờ Giêsu giơ cao tay để sơn đầu cầu thang.

          Người tiếp tục nói: “Người ta cũng hành động như vậy với các tâm hồn. Thầy đã nói lúc đầu rằng sơn cũng giống như các nhân đức làm đẹp cho tâm hồn con người. Nó làm đẹp và bảo trì gỗ khỏi mọt, khỏi mưa nắng. Khốn cho ông chủ nhà nào không săn sóc các đồ được sơn và để nó hư hại! Khi nhìn thấy đồ gỗ đã bong sơn thì không được mất thời giờ, phải làm mới lại nước sơn… Các nhân đức cũng vậy: một cái đà hướng về sự công chính có thể hư hại hay biến mất hoàn toàn, nếu chủ nhà không canh chừng. Thể xác và tâm hồn bị trần trụi, phơi bày ra ngoài mưa gió và các ký sinh vật, tức là các đam mê và phóng đãng, có thể bị tấn công và mất lớp che chở làm cho nó đẹp, sau cùng sẽ chỉ còn tốt cho lò lửa…

          Dù là ở nơi chúng ta hay nơi những người chúng ta yêu, như các môn đệ của chúng ta chẳng hạn. Khi thấy họ thoái hóa, lơ là với các nhân đức giúp chúng ta chống lại cái tôi của chúng ta, thì phải lập tức gò cương lại bằng một công việc cần cù, nhẫn nại tới cùng của cuộc đời, để có thể yên nghỉ trong cái chết với một thân xác và một tâm hồn xứng đáng với sự phục sinh vinh hiển.

          Để cho các nhân đức là thực sự và tốt lành, phải bắt đầu bằng một ý hướng trong sạch, can đảm, dẹp bỏ mọi vấn rác, mọi nhơ uế và áp dụng nhân đức, không để sự bất toàn trong việc đào tạo nhân đức. Rồi sau đó giữ thái độ không qúa khắt khe, không qúa dễ dãi, vì sự khăng khăng và sự dễ dãi qúa mức đều có hại. Và cái cọ là ý chí, nó phải sạch sẽ mọi hướng chiều về con người khi trước, có thể làm ra những vết lằn trong lớp sơn siêu nhiên bởi những đường khứa của vật chất, và sửa soạn cho chính mình hay cho các người khác những thực hành kịp thời, tuy mệt mỏi nhưng cần thiết để thanh lọc cái tôi cũ cho khỏi mọi bệnh phong cùi cũ, để nó được trong sạch mà đón nhận các nhân đức. Qủa vậy, người ta không thể pha trộn sơn cũ với sơn mới.

          Rồi bắt đầu công việc một cách thứ tự, với suy xét chín chắn.

          Không nhảy từ chỗ nọ qua chỗ kia mà không có lý do chính đáng.

          Đừng làm một tí theo chiều nọ rồi một tí theo chiều kia. Thực sự người ta có thể bớt mệt một tí, nhưng nước sơn không đều. Đó là điều xảy ra nơi những tâm hồn vô trật tự. Họ bày ra những chỗ hoàn hảo, nhưng ở bên cạnh thì đây, những chỗ biến dạng, những mầu khác nhau… Những chỗ ăn sơn không đều, những chỗ mắt gỗ là những khuyết điểm về chất liệu: những đam mê đồi trụy, có được kìm hãm bởi ý chí, nhưng giống như cái bào khó lòng làm cho nó mướt trơn, nó tồn tại để chống cự, giống như cái mắt gỗ bị cắt ngang nhưng không bị phá hủy. Đôi khi nó lừa dối, vì nó có vẻ như được phủ bằng nhân đức, mà thật ra chỉ có một lớp sơn mỏng, sẽ rơi đi mau lẹ. Hãy chú ý tới những cái mắt của dâm đãng. Hãy làm sao cho nó được phủ kín bằng nhiều lớp của các nhân đức, để nó đừng chui ra và làm hư hỏng cái tôi mới. Và trên các phần mềm, những phần dính sơn dễ dàng, nhưng thất thường với những chỗ phồng và những khe, hãy dùng nhiều giấy nhám để mài nhẵn, mài nhẵn, mài nhẵn, rồi sơn một hay nhiều lớp sơn, để những chỗ này cũng nhẵn bóng như men cứng. Và cẩn thận, đừng thái qúa. Một sự hăng say thái qúa về nhân đức cũng có thể làm cho tạo vật phản loạn, sôi sục lên, tróc sơn khi vừa bị va chạm lần thứ nhất. Không, đừng qúa, đừng quắt. Một mức độ vừa phải của công việc trên bản thân và  trên mọi vật, phải được làm với thể xác và tâm hồn.

          Trong phần đông các trường hợp – vì Auréa là trường hợp đặc biệt ngoại lệ – có những phần mới lẫn lộn với các phần cũ, giống như nơi các người Israel chuyển từ Môise qua Đức Kitô, và cũng như dân ngoại với niềm tin cố cựu của họ, không thể đùng một phát có thể làm biến mất, nó sẽ khơi dậy những nuối tiếc và các kỷ niệm, ít nhất là trong những điều trong sạch nhất. Khi đó lại phải lưu ý hơn và khéo léo kiên trì, để những cái cũ tan đều hòa hợp với những cái mới, bằng cách dùng những thứ cũ đã có sẵn để hoàn tất các nhân đức mới. Như vậy, nơi các người Rôma thì lòng yêu quê hương và sự can đảm cương quyết là những yếu tố quan trọng, hai điều này có thể nói là cuồng tín. Vậy không được phá hủy nó, nhưng phải ghi khắc cho lòng ái quốc một tinh thần mới, tức là ý hướng làm cho Rôma một sự vĩ đại siêu nhiên, bằng cách làm cho nó thành trung tâm của Kitô giáo. Các con hãy sử dụng sự cương quyết trưởng thành của người Rôma, những người can đảm trong chiến đấu, để làm cho họ can đảm trong đức tin. Một ví dụ khác: Auréa.

          Sự ghê tởm của một khám phá độc ác đã đẩy nó tới chỗ yêu thích những gì trong sạch và ghét những cái dơ bẩn. Vậy hãy lợi dụng hai tình cảm này để dẫn nó tới một sự trong sạch toàn vẹn và ghét sự dâm đãng tựa như nó là tên Rôma độc ác.

          Các con hiểu Thầy không? Hãy lợi dụng các phong tục làm phương tiện để xâm nhập vào. Đừng phá hủy nó cách tàn bạo. Các con sẽ không có ngay đủ các thứ cần để tái thiết. Nhưng hãy rất từ từ thay thế những cái không thể để lại trong kẻ hoán cải, với tình bác ái, nhẫn nại bền bỉ. Và bởi vì vật chất ngự trị, nhất là nơi dân ngoại, dù đã trở lại, và nó luôn luôn tồn tại vì những giao tiếp với môi trường mà họ phải sống, các con hãy nhấn mạnh rất nhiều về sự mau qua của các thú vui giác quan. Chính bởi giác quan mà các thứ khác xâm nhập. Các con hãy canh chừng những cảm giác qúa mức nơi dân ngoại, và chúng ta cũng phải thú rằng nó cũng rất mạnh nơi chúng ta. Khi các con thấy rằng những giao tiếp với thế giới làm hư hỏng lớp sơn bảo vệ thì đừng tiếp tục sơn chỗ trên cao nữa, nhưng hãy trở lại chỗ thấp để giữ cho quân bình giữa thể xác và tinh thần, giữa chỗ cao và chỗ thấp.  Nhưng phải luôn luôn bắt đầu bằng thân xác, bằng các tật xấu về vật chất, để sửa soạn đón tiếp Vị Khách không chịu ở trong những thể xác ô uế cũng như những tâm hồn xông ra mùi hôi thối của dâm ô xác thịt … Các con hiểu Thầy không?

          Đừng sợ bị nhơ khi y phục của các con đụng vào những phần hạ cấp, vật chất, của những kẻ mà các con săn sóc tâm hồn. Hãy cẩn thận để đừng làm hư hại thay vì xây dựng. Hãy sống trong cái tôi được nuôi dưỡng bằng Thiên Chúa, được bao bọc bằng các nhân đức của các con. Hãy đến với họ cách tế nhị, nhất là khi các con phải săn sóc cái tôi siêu nhiên rất nhậy cảm của người khác. Và chắc chắn các con sẽ thành công làm cho những kẻ, dù đáng khinh nhất, thành những người xứng đáng cho nước Trời”.

          – Thầy đã nói một dụ ngôn thật đẹp! Con muốn viết cho Margziam

          – Zêlote nói.

           – Và với con thì phải làm hoàn toàn đẹp đẽ cho Chúa – Auréa nói nhẩn nha từng tiếng, vừa nói vừa tìm chữ. Nó đi chân đất và đứng ở cửa vườn đã từ một lúc.

          – Ồ, Auréa, con đã nghe chúng ta nói à? – Giêsu hỏi.

          – Con đã nghe Thầy. Thật là đẹp! Con có làm bậy không?

          – Con ơi, không. Con ở đây lâu chưa?

          – Chưa. Và con tiếc, vì con không biết rằng Thầy đã nói từ trước. Mẹ Thầy sai con đến nói với Thầy là sắp đến giờ ăn. Sắp sửa lấy bánh ra khỏi lò. Con đã học làm bánh… Thật là đẹp! Và con tẩy trắng vải. Về bánh và về vải, mẹ Thầy đã nói cho con hai dụ ngôn.

          – A! Thế à? Mẹ đã nói gì?

          – Nói rằng con giống như bột còn ở trên rây. Nhưng lòng nhân từ của Thầy đã làm sạch cho con, ơn sủng của Thầy đã làm việc nơi con, sự giảng dạy của Thầy đã tạo hình cho con, tình yêu của Thầy nướng chín con, và từ nắm bột thô kệch, được nhào lộn với biết bao cái của Thầy, sau cùng, nếu con để cho mình được làm việc bởi Thầy, con sẽ trở nên thứ bột của bánh thánh, bột và bánh hy sinh để dâng trên bàn thờ. Và về những tấm vải mầu tối, dính dầu, thô nhám, mà sau khi nhào với biết bao bồ hòn, và bao cú đập của hy sinh, nó trở nên sạch sẽ, mềm mại, và bây giờ mặt trời sẽ gởi các tia sáng của nó xuống cho nó, và nó sẽ trở nên trắng… Mẹ nói rằng mặt trời Thiên Chúa sẽ làm như vậy cho con, nếu con luôn luôn ở lại dưới mặt trời, và nếu con chấp nhận sự giặt giũ và cả hy sinh, để trở nên xứng đáng với Vua các vua, với Thầy, Chúa của con. Con đã học được biết bao điều đẹp đẽ… Con thấy như mơ… Đẹp! Đẹp!           Đẹp! Tất cả đều đẹp ở đây… Chúa ơi! Đừng đem con đi nơi nào khác.

          – Con sẽ không tự nguyện đi với Myrta và Noêmi?

          – Con thích ở đây hơn… nhưng… dù với các bà, nhưng không với các người Rôma. Không, Chúa ơi, không…

          – Con ơi, hãy cầu nguyện! – Giêsu nói khi đặt tay Người trên mái tóc mầu mật ong. “Con đã học cầu nguyện chưa?”

          – Ôi! Có. Thật là đẹp để nói: “Cha của con”, và nghĩ về Trời…

          Nhưng… Ý muốn của Thiên Chúa làm con hơi sợ… vì con không biết Thiên Chúa có muốn điều con muốn không…

          – Thiên Chúa muốn điều tốt cho con.

          – Thật à? Thầy đã nói vậy? Vậy con không sợ nữa… Con nghĩ con sẽ ở lại Israel… để càng ngày càng biết người Cha này là cha của con… Và lạy Chúa con! Để con làm môn đệ đầu tiên của nước Gaule.

          – Đức tin của con sẽ được chấp nhận, vì nó tốt. Ta đi thôi.

          Và tất cả đều ra để rửa ráy ở cái bể dưới dòng suối, còn Auréa thì chạy về với Maria, và người ta nghe thấy hai giọng nói của phụ nữ: giọng của Maria bộc lộ cách dễ dàng trọn vẹn, còn giọng kia thì không chắc chắn, còn ngập ngừng để tìm từ, rồi những tiếng cười dòn vì vài từ dùng sai mà Maria sửa chữa cách êm đềm…

          – Con bé học lẹ và biết rành – Tôma nhận xét.

          – Nó có thiện chí đầy tràn và tốt.

           – Lại nữa, nó có mẹ Thầy làm cô giáo. Cả Satan cũng không thể kháng cự lại mẹ!… – Zêlote nói.

          Giêsu thở dài, không nói.

          – Tại sao Thầy thở dài vậy? Con nói sai à?

          – Không. Rất đúng. Nhưng người ta kháng cự hơn là Satan. Nó, ít nhất, chỉ tránh cái nhìn của Maria thôi, còn có những người ở chung quanh mẹ, được mẹ dạy bảo, nhưng không cải thiện…

          – Nhưng không phải chúng con, phải không Thầy? – Tôma nói.

          – Không phải các con… Đi.

          Họ vào trong nhà, và thị kiến chấm dứt.

Quyển 6, đoạn 126: GIÊSU NÓI DỤ NGÔN VỀ VIỆC SƠN GỖ TRONG KHI NGƯỜI LÀM VIỆC

Trích trong bộ sách 10 quyển : “Bài thơ của CON NGƯỜI-THIÊN CHÚA”

Viết bởi: Maria Valtorta

Chuyển ngữ: Nữ tu Phạm thị Hùng CMR

 

Download BÀI THƠ CỦA CON NGƯỜI-THIÊN CHÚA

Viết bởi Maria Valtorta

Dịch gỉa: Nữ tu Phạm Thị Hùng CMR

Quyển 1-Chuẩn Bị.pdf

http://www.mediafire.com/view/?4bcyq77ze4ai2yo

Quyển 2_Năm I Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?ea5acw4wttbdudd

Quyển 3-Năm II Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?o6gi6p73sk5lrhd

Quyển 4-Năm II Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?s9akma9mmdzdb26

Quyển 5-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?yrq9nq416v5s4dx

Quyển 6-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?8vl7kzjkskplk1b

Quyển 7-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?apbbvph8ndui8m3

Quyển 8-Chuẩn Bị Cuộc Tử Nạn.pdf

http://www.mediafire.com/view/?kbp3i58kizp5ad1

Quyển 9-Cuộc Tử Nạn.pdf

http://www.mediafire.com/view/?txb433uklyoke1x

Quyển 10-Vinh Quang.pdf

http://www.mediafire.com/view/?oln727ghllo7536

 

by Tháng Mười Một 21, 2012 Comments are Disabled Cuộc đời Chúa Giê-su (Maria Valtorta), Tâm Linh
Cuộc đời Chúa Giêsu – Quyển 1 (Maria Valtorta)

Cuộc đời Chúa Giêsu – Quyển 1 (Maria Valtorta)

 https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/08/TIN-MUNG-nhu-da-duoc-ven-mo-cho-Toi.jpg

Download TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI 

Viết bởi Maria Valtorta

Dịch gỉa: Nữ tu Phạm Thị Hùng CMR

Quyển 1-Chuẩn Bị.pdf

Xin bấm: http://www.mediafire.com/view/?4bcyq77ze4ai2yo 

      Trích lời dẫn nhập của Linh Mục Giuse Hoàng Minh Thắng trong ” Maria Valtorta 3 “:  

      *Theo lời kể của Linh Mục Leo Maasburg, phụ trách các Nam thừa sai bác ái của Mẹ Têrêxa tại Vienne, thủ đô nước Áo, và là người thỉnh thoảng giải tội cho Mẹ trong 4 năm, Mẹ Têrêxa luôn luôn mang theo ba cuốn sách khi di chuyển: Đó là sách Thánh Kinh, Kinh Thần Vụ và một cuốn sách thứ ba. Khi cha hỏi Mẹ là sách gì, thì Mẹ trả lời là một cuốn sách của bà Maria Valtorta. Khi cha hỏi nội dung cuốn sách, thì Mẹ trả lời và lập lại một cách đơn sơ ”Cha hãy đọc nó”.

      *Một năm trước khi cha Pio qua đời, bà Elisa Lucchi, một ngưới tới xưng tội với cha xin lời khuyên liên quan tới việc đọc tác phẩm ”Bài thơ của Con Người Thiên Chúa” của Maria Valtorta, cha Pio trả lời: ”Không nhũng cha cho phép, mà còn khuyên con đọc nó nữa”.

        (Bài thơ của Con Người Thiên Chúa là tên dịch từ quyển tiếng Anh Poem of the Man God, tiếng Pháp là   L’Evangile tel qu’il m’a été révélé còn được dịch sang tiếng Việt là Tin Mừng như đã được vén mở cho tôi.)


                                MỤC LỤC

Tựa……………………………………………………………………5

Chú thích của dịch giả ………………………………………..9

1* “Người ta có thể gọi Maria là con thứ của Chúa Cha” ..15

2* Joakim và Anna khấn với Chúa ………………………………….16

3* Anna cầu nguyện ở Đền Thờ và Thiên Chúa nhận lời bà …21

4*“Joakim đã kết hôn với sự khôn ngoan của Thiên Chúa,

     được giữ kín trong con tim của người đàn bà công chính” 25

5* Anna, với một thánh vịnh, loan báo chức làm mẹ của bà …27

6* “Đấng Vô Tì Vết không bao giờ ngừng tưởng nhớ tới

     Thiên Chúa”  30

7* Việc sinh hạ Đức Trinh Nữ Maria ……………………………….33

8* “Linh hồn Người đã xuất hiện đẹp đẽ nguyên vẹn như khi

     Thiên Chúa nghĩ tới” 41

 9* “Bông huệ của má! Trong ba năm nữa, con sẽ ở đây” …..52

10* “Đây, con trẻ vẹn toàn với qủa tim bồ câu” ……………….56

11* “Niềm vui của má! Làm sao con biết những điều thánh này?

       Ai đã nói cho con?”   58

12* “Người con đã chẳng đặt sự khôn ngoan của chính Người

        trên môi mẹ mình sao?” 64

13* Maria được dâng vào Đền Thờ ……………………………….66

14* “Người Trinh Nữ Đời Đời chỉ có một tư tưởng:

       hướng lòng Người lên cùng Thiên Chúa”72

15* Cái chết của Joakim và Anna …………………………………74

16* “Chắc con sẽ là mẹ Đấng Kitô” ………………………………78

17* “Mẹ thấy lại tất cả những gì thần trí mẹ đã thấy nơi Thiên Chúa” 85

18* “Thiên Chúa sẽ ban cho con người chồng. Ông sẽ là thánh, vì con

đã phó mình cho Thiên Chúa Con sẽ nói với ông lời khấn của con” 88

19* Giuse được chỉ định làm chồng của người Trinh Nữ …….93

20* Hôn lễ của người Trinh Nữ với Giuse ………………………100

21* “Giuse được đặt như ấn tín trên ấn tín, như một Tổng Thần

       trước cửa Thiên Đàng” 107

22* Đôi tân hôn về tới Nazarét ……………………………………110

23* Truyền tin ……………………..118

24* Sự bất tuân của Evà thứ nhất …………………………………122

25* Evà mới thực thi sự vâng lời trong mọi dịp …………………126

26* Một lời giải thích nữa về tội nguyên tổ ………………………132

27* Báo cho Giuse về việc Êlisabét có thai ……………………… 135

28* “Hãy để Ta lo việc biện minh cho con với chồng của con” 139

29* Maria và Giuse đi Jêrusalem ……………………………………142

30* Từ Jêrusalem tới nhà Zacari ……………………………………144

31* “Đừng bao giờ lột bỏ sự bảo vệ của lời cầu nguyện” ……. 146

32* Tới nhà Zacari ……………………………………………………..148

33* Maria tiết lộ Thánh Danh cho Êlisabét ……………………… 153

34* Maria nói về Con Mẹ ……………………………………………..158

35* “Ơn của Thiên Chúa phải luôn luôn làm cho chúng ta

       nên tốt hơn” 161

36* Việc sinh hạ ông Tẩy Giả ………………………………………..163

37* “Sự trông cậy tươi nở như một bông hoa cho kẻ tựa đầu

       vào lòng từ mẫu của mẹ” 170

38* Lễ cắt bì cho ông Tẩy Gỉa ……………………………………….171

39* Hãy sửa soạn tâm hồn các con để đón nhận ánh sáng … 174

40* Lễ dâng Gioan Tẩy Giả vào Đền Thờ ……………………….. 176

41* “Nếu Giuse ít thánh thì Thiên Chúa đã không ban ánh sáng

       của Người cho ông” 182

42* Maria Nazarét giải thích với Giuse …………………………185

43* “Hãy để Thiên Chúa lo việc công bố cho các con là

       đầy tớ của Người” 188

44* Chiếu chỉ kiểm kê dân số ……………………………………190

45* “Yêu là làm thỏa lòng người yêu vượt ra ngoài tình cảm và

       lợi lộc”194

46* Cuộc hành trình về Bétlem …………………………………196

47* Chúa Giêsu giáng sinh ……………………………………….201

48* “Mẹ là Maria, mẹ đã cứu chuộc người đàn bà bằng việc làm mẹ

       bởi Thiên Chúa của mẹ” 207

49* Các mục đồng thờ lạy ……………………………………….211

50* “Nơi các mục đồng có tất cả những đức tính cần thiết để làm

      kẻ thờ lạy Ngôi Lời” 222

51* Cuộc viếng thăm của Zacari ……………………………….223

52* “Thánh Giuse cũng bảo vệ các linh hồn được thánh hiến” 228

53* Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thờ ……………………………231

54* Những giáo huấn giãi tỏa ra từ cảnh trước …………….236

55* Bài hát ru của Đức Trinh Nữ ……………………………….239

56* Ba nhà Đạo Sĩ thờ lạy ……………………………………….242

57* Suy niệm về Đức Tin của các nhà Đạo Sĩ ………………250

58* Trốn sang Ai Cập ……………………………………………..258

59* “Sự đau khổ đã là bạn trung thành của chúng ta. Nó có mọi vẻ mặt

        khác nhau và mọi thứ tên” 264

60* Thánh gia tại Ai Cập …………………………………………269

61* “Trong căn nhà này, trật tự được kính trọng” …………274

62* Bài học đầu tiên về việc làm của Chúa Giêsu ………… 279

63* “Cha đã không muốn băng qua các định luật về sự

        phát triển một cách ồn ào”  281

64* Maria là cô giáo của Giêsu, Giacôbê và Juđa ………….284

65* Chuẩn bị y phục cho lễ Vị Thành Niên của Chúa Giêsu 292

66* Khởi hành từ Nazarét cho lễ thành niên của Chúa Giêsu 295

67* Sát hạch về tuổi trưởng thành của Chúa Giêsu tại Đền Thờ 297

68* Giêsu thảo luận với các tiến sĩ ở Đền Thờ ……………..303

69* Sự đau đớn của Maria khi lạc mất Giêsu ………………313

70* Thánh Giuse qua đời ……………………………………….315

71* “Maria đã cảm thấy một đau đớn sắc nhọn

        do cái chết của Giuse” 322

72* Kết luận về đời sống ẩn dật …………………………….. 323

Hết quyển một.

 

Quyển 1-Chuẩn Bị.pdf

http://www.mediafire.com/view/?4bcyq77ze4ai2yo

Quyển 2_Năm I Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?ea5acw4wttbdudd

Quyển 3-Năm II Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?o6gi6p73sk5lrhd

Quyển 4-Năm II Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?s9akma9mmdzdb26

Quyển 5-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?yrq9nq416v5s4dx

Quyển 6-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?8vl7kzjkskplk1b

Quyển 7-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?apbbvph8ndui8m3

Quyển 8-Chuẩn Bị Cuộc Tử Nạn.pdf

http://www.mediafire.com/view/?kbp3i58kizp5ad1

Quyển 9-Cuộc Tử Nạn.pdf

http://www.mediafire.com/view/?txb433uklyoke1x

Quyển 10-Vinh Quang.pdf

http://www.mediafire.com/view/?oln727ghllo7536

 

by Tháng Mười Một 12, 2012 Comments are Disabled Cuộc đời Chúa Giê-su (Maria Valtorta), Tâm Linh
Cuộc đời Chúa Giêsu – Quyển 6, 84: Từ biệt tại Kêriot

Cuộc đời Chúa Giêsu – Quyển 6, 84: Từ biệt tại Kêriot

 https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/11/chua-giang-day-tai-hoi-duong.jpg

TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI

Viết bởi Maria Valtorta

Dịch gỉa: Nữ tu Phạm Thị Hùng CMR

QUYỂN 6

Năm thứ ba đời sống công khai

 

84* TỪ BIỆT TẠI KÊRIOT

          Giêsu nói ở bên trong giáo đường Kêriot. Người ta chen chúc một cách khó tưởng tượng. Người đang trả lời cho người nọ người kia hỏi Người lời khuyên về những vấn đề đặc biệt cá nhân. Sau khi đã làm họ thỏa mãn, Người nói lớn:

          – Thưa qúi vị xứ Kêriot, hãy nghe dụ ngôn từ biệt của Thầy. Chúng ta hãy cho nó cái tên là: Hai ý muốn.

          Một người cha toàn vẹn có hai đứa con trai. Ông yêu cả hai đứa với cùng một tình yêu khôn ngoan. Cả hai đều được khuyến khích để đi vào con đường tốt. Không có một khác biệt nào về cách yêu thương và hướng dẫn chúng. Nhưng có sự khác nhau rõ ràng giữa hai người con: một đứa, người con cả thì khiêm nhường, vâng lời, làm theo ý muốn của cha, không cãi lý, luôn luôn vui vẻ và bằng lòng với công việc.

          Đứa kia, tuy nhỏ tuổi hơn, nhưng thường bất bình. Nó thường cãi lý với cha nó cũng như với cái tôi riêng của nó. Nó không ngừng suy nghĩ, làm những việc đắn đo rất loài người về những lời khuyên và những mệnh lệnh nó nhận được. Thay vì thi hành như nó được ban bố, anh ta cho phép mình sửa đổi, hoặc tất cả, hoặc một phần, tựa như người ra lệnh là người ngu đần. Người anh cả nói với anh ta: “Đừng làm như vậy, em làm cho cha buồn”. Nhưng anh ta trả lời: “Anh là thằng ngốc. Anh chỉ to xác và thô kệch. Hơn nữa, vì là con trưởng nên bây giờ anh đã trưởng thành. Ôi! Tôi không muốn ở lại ngang hàng, nơi ba đã đặt anh vào, nhưng tôi muốn làm hơn: áp đặt các đầy tớ để chúng hiểu rằng chính tôi là chủ. Anh thì với sự êm đềm vĩnh đại của anh, anh cũng chỉ giống như người đầy tớ thôi. Tận thâm tâm, anh không thấy rằng khi anh đi qua, chả ai thèm để ý, dù anh là trưởng nam sao? Có một số còn đi tới chỗ chế diễu anh…” Người con thứ bị quyến rũ, và còn hơn là bị quyến rũ, anh ta là đồ đệ của Satan. Anh ta chú tâm thi hành mọi lời xỏ xiên để quyến rũ người con cả, nhưng anh này trung thành với Chúa trong việc vâng giữ lề luật cũng như vẫn trung thành với cha anh, người mà anh tôn kính bằng lối sống hoàn hảo của anh.

          Nhiều năm qua đi, người con thứ bứt rứt vì không thể hoành hành như anh ta mơ, sau khi đã nhiều lần anh xin với cha anh: “Hãy ra lệnh cho con hành động nhân danh cha, vì danh dự của cha, thay cho cái anh ngu đần này, hiền còn hơn một con cừu”. Sau khi đã nhiều lần thúc đẩy anh cả của anh làm hơn những điều cha anh truyền để áp đặt các đầy tớ, các đồng hương, các láng giềng, anh ta tự nhủ:  “Ôi! Đủ rồi! Sự nổi tiếng của chúng ta đang bị liên lụy, bởi vì không ai muốn hành động. Tôi, tôi sẽ hành động”. Rồi anh ta bắt đầu làm việc chỉ với đầu óc của anh, lao đầu vào kiêu căng, nói dối, bất tuân không e dè.

          Người cha nói với anh: “Con ơi, hãy vâng phục anh cả của con, nó biết phải làm gì” ông ta nói: “Người ta nói với cha là con đã làm điều nọ điều kia, có đúng không?” Người con thứ nhún vai trả lời cho câu trước và câu sau của cha anh: “Anh ấy biết! Anh ấy biết! Anh ấy qúa rụt rè, ngập ngừng. Anh ấy thiếu điều kiện để chiến thắng. Con, con không hành động như vậy”. Người cha nói: “Đừng tìm sự giúp đỡ nơi người nọ người kia. Con muốn ai có thể giúp con hơn là chúng ta để làm rạng danh cho chúng ta. Đó là những bạn hữu giả, chúng kích thích con để rồi sau đó chúng cười vào các chi phí của con”. Người con thứ lại nói: “Ba ghen vì con là người đề xướng sao? Lại nữa, con biết là con hành động đúng”.

          Lại qua đi một thời gian nữa. Người con trưởng luôn luôn thăng tiến trong sự công chính, người con thứ ôm ấp những ước vọng xấu. 

          Sau cùng người cha nói: “Đã đến lúc phải chấm dứt những chuyện đó. Hoặc con phục tùng những điều cha nói, hoặc con mất tình yêu của cha”. Kẻ phản ngụy đi nói với các bạn xấu của anh, họ trả lời: “Bạn sẽ làm gì với chuyện đó? Ồ, không. Có cách hành động để đặt người cha trong điều kiện không thể thương đứa con nọ hơn đứa con kia chứ! Hãy đặt ông ta trong tay chúng ta, và chúng ta sẽ làm công việc của chúng ta. Bạn sẽ tránh được những thiệt hại về vật chất, và của cải sẽ sinh hoa lợi. Sau khi hủy bỏ những điều khoản qúa khoan dung, anh sẽ có thể cho họ những rạng ngời. Anh không biết rằng thà dùng bạo lực, dù bắt phải chịu khổ, còn hơn là bất động để phí phạm của cải sao?” Và đứa con thứ từ đó hoàn toàn đồi bại, liên kết với những đồng lõa bất xứng.

          Bây giờ hãy nói cho Thầy: người ta có thể trách cứ người cha là đã cho hai đứa con ông hai lối giáo dục khác nhau không? Không. Vậy làm sao một người con là thánh, còn người kia hư hỏng? Ý muốn đã được ban cho con người từ trước, có phải là được ban theo hai phương cách khác nhau không? Không. Nó được ban theo một cách duy nhất. Nhưng con người đã thay đổi nó theo ý thích của họ. Kẻ tốt thì làm cho nó thành tốt, kẻ xấu thì làm cho nó thành xấu.

          Thầy, hỡi các con người Kêriot, Thầy thúc giục các con, và đây là lần sau cùng Thầy thúc giục và khuyến khích các con theo con đường của sự khôn ngoan, chỉ theo với ý muốn tốt mà thôi. Thầy đang sắp kết thúc sứ mạng của Thầy. Thầy nói với các con những lời đã được hát lúc Thầy sinh ra: “Bình an cho những người thiện chí”. Bình an tức là sự thành công, tức là chiến thắng ở dưới đất và ở trên trời, vì Thiên Chúa ở với người có thiện chí muốn vâng lời Người. Thiên Chúa không nhìn vào những việc vang lừng mà người ta làm do họ tự đề xướng, cho bằng nhìn sự vâng lời khiêm tốn, mau mắn, trung thành với những việc Người đề nghị.

          Thầy nhắc lại cho các con hai giai đoạn trong lịch sử Israel, hai bằng chứng là Thiên Chúa không ở tại nơi mà con người muốn tự ý hành động, dày xéo lên mệnh lệnh mà họ đã nhận. Chúng ta hãy coi, sách Maccabê có chép rằng: Trong khi Juđa Maccabê cùng với Jonatha đi chiến đấu ở Galaad, và trong khi Simon đi giải phóng cho những miền khác ở Galilê, ông đã ra lệnh cho Giuse con của Jacari, và cho Azarias thủ lãnh của dân, là hãy ở lại Juđê để bảo vệ nó. Juđa nói với họ: “Hãy săn sóc dân chúng, đừng lao họ vào chiến tranh với các dân cho tới khi chúng tôi trở về”. Nhưng Giuse và Azarias nghe nói về các chiến thắng của các Maccabê, cũng muốn bắt chước họ nên nói với nhau: “Chúng ta cũng hãy làm nổi  danh chúng ta. Hãy đi chiến đấu với các dân ở chung quanh chúng ta”. Họ đã bị bại trận và bị đuổi bắt. Và sự thất bại của dân rất bi thảm, vì họ không vâng lời Juđa và các em ông, tưởng là mình hành động anh hùng, nhưng đó là kiêu căng và bất tuân.

          Và ta đọc thấy gì trong sách các vua? Ta đọc: Saul bị khiển trách lần thứ nhất, rồi lần thứ hai. Và ở lần thứ hai, ông bị bài xích vì không vâng lời tới nỗi Đavít đã được chọn để thay thế ông, vì ông bất tuân. Các con hãy nhớ, hãy nhớ: Chúa muốn lễ toàn thiêu, lễ hy sinh, hay Người muốn ta vâng lời tiếng nói của Người? Sự vâng lời có giá hơn lễ hy sinh; sự phục tùng có giá hơn chiên béo hy lễ. Vì sự phản động là một tội phù thủy, sự từ chối vâng lời là tội thờ tà thần: “Vì ông từ bỏ lời Chúa, Chúa cũng từ bỏ ông và cất lấy vương quyền của ông”.

          Các con hãy nhớ, hãy nhớ: Khi Samuel vâng lời, đổ đầy dầu vào chiếc sừng của ông và tới nhà Isai ở Bétlem, vì Chúa đã chọn một ông vua khác. Isai ngồi vào bàn tiệc với các con ông sau khi đã làm lễ hy sinh. Lúc đó các con của Isai được giới thiệu với Samuel.

          Trước tiên là Êliab, con trưởng, cao lớn, đẹp trai. Nhưng Chúa nói với Samuel: “Đừng chú ý tới khuôn mặt và vóc dáng của nó, bởi vì ta đã chừa nó ra. Ta không xét đoán theo cái nhìn của con người. Con người cảm phục những gì mắt họ nhìn thấy, nhưng Chúa nhìn trong qủa tim”. Và Samuel không nhận Êliab làm vua. Ông giới thiệu Abinadab. Nhưng Samuel nói: “Chúa cũng không chọn đứa này”. Và Isai giới thiệu với ông Samma, nhưng Samuel nói: “Nó cũng không được Chúa chọn”. Và tiếp tục như vậy tới hết bảy con trai của Isai hiện diện tại bữa tiệc. Samuel nói: “Có phải đây là tất cả các con trai của ông không?” Isai trả lời: “Không, còn một đứa nữa, còn nhỏ, đang chăn cừu”. “Hãy gọi nó tới, vì chúng ta sẽ không ngồi vào bàn trước khi nó về”. Và Đavít tới, một đứa trẻ tóc vàng, đẹp trai. Chúa nói: “Hãy xức dầu cho nó. Chính nó là vua”.

          Vì các con hãy luôn luôn biết điều này: Thiên Chúa chọn kẻ nào người muốn, và người cất lấy của kẻ nào không đáng vì đã làm hỏng ý Người bởi kiêu căng và bất tuân. Sau lần này, Thầy sẽ không trở lại giữa các con nữa. Ông Thầy đang kết thúc sứ mạng của Người. Sau đó, Người sẽ hơn là một người Thầy. Các con hãy chuẩn bị tâm hồn cho giờ ấy. Các con hãy nhớ, việc Thầy sinh ra đã được chào đón cho các kẻ có thiện chí, cũng vậy, việc thăng thiên của Thầy sẽ được chào đón cho những người có thiện chí theo Thầy như một người Thầy trong giáo thuyết của Thầy, và cho những kẻ sau đó sẽ theo Thầy như vậy, cả sau khi Thầy lên trời.

          Chào các ông, các bà, các trẻ em Kêriot. Chào. Chúng ta hãy nhìn vào mắt nhau. Chúng ta hãy làm sao cho con tim của chúng ta, của Thầy và của các con, tan hòa trong cái ôm ấp của tình yêu giã từ. Và nguyện cho tình yêu luôn luôn sống động, cho dù khi Thầy không còn nữa, không bao giờ còn nữa ở giữa các con…Tại đây, vào lúc Thầy đến lần thứ nhất, một người công chính đã tắt thở trong cái hôn của Vị Cứu Tinh của ông trong một thị kiến vinh quang… Ở đây, lần này là lần sau cùng Thầy đến, Thầy chúc lành cho các con với tình yêu.

           Chào!… Nguyện Thiên Chúa ban cho các con lòng tin, lòng trông cậy và lòng bác ái trong mức độ trọn hảo. Xin Người ban cho các con tình yêu, tình yêu, tình yêu, cho ông ta, cho thầy, cho những người tốt, cho những kẻ khốn nạn, cho kẻ có tội, cho những kẻ phải mang gánh nặng của một tội không phải là tội của họ.

          Các con hãy nhớ! Hãy nhân từ. Đừng bất công. Các con hãy nhớ là không những Thầy tha cho kẻ có tội, mà Thầy còn bao bọc tình yêu trên toàn thể Israel. Toàn thể Israel, gồm những kẻ tốt và những kẻ không tốt, cũng như trong một gia đình, có những người tốt và những người không tốt. Vậy khi bảo một gia đình là xấu vì một trong những phần tử của nó xấu, là điều bất công.

          Thầy đi… nếu còn ai trong các con cần nói với Thầy thì họ hãy đến nhà Maria Simon ở miền quê vào buổi chiều.

          Giêsu giơ tay chúc lành, rồi Người đi ra rất lẹ bởi một cái cửa phụ. Các người của Ngài theo sau. Người ta rì rầm:

          – Người không trở lại nữa.

          – Người muốn nói gì vậy?

          – Người có nước trên mi khi nói lời từ biệt.

          – Qúi vị có nghe không? Người nói Người sẽ lên!

          – Vậy ra Judas thực sự có lý! Chắc chắn sau này Người sẽ là vua, và người không còn ở giữa chúng ta như bây giờ nữa…

          – Nhưng tôi, tôi đã nói chuyện với các anh Người, họ nói Người sẽ không là vua như người ta nghĩ, nhưng là vua Cứu Chuộc như các tiên tri nói. Người sẽ là Đấng Messi, vậy đó!

          – Chắc chắn là vua Messi.

          – Nhưng không! Vua Cứu Chuộc, con người của đau thương.

          – Đúng.

          – Không! …

          Nhưng Giêsu đi lẹ về miền quê.

         *Theo lời kể của Linh Mục Leo Maasburg, phụ trách các Nam thừa sai bác ái của Mẹ Têrêxa tại Vienne, thủ đô nước Áo, và là người thỉnh thoảng giải tội cho Mẹ trong 4 năm, Mẹ Têrêxa luôn luôn mang theo ba cuốn sách khi di chuyển: Đó là sách Thánh Kinh, Kinh Thần Vụ và một cuốn sách thứ ba. Khi cha hỏi Mẹ là sách gì, thì Mẹ trả lời là một cuốn sách của bà Maria Valtorta. Khi cha hỏi nội dung cuốn sách, thì Mẹ trả lời và lập lại một cách đơn sơ ”Cha hãy đọc nó”.

         *Một năm trước khi cha Pio qua đời, bà Elisa Lucchi, một ngưới tới xưng tội với cha xin lời khuyên liên quan tới việc đọc tác phẩm ”Bài thơ của Con Người Thiên Chúa” của Maria Valtorta, cha Pio trả lời: ”Không nhũng cha cho phép, mà còn khuyên con đọc nó nữa”.

        -Linh Mục Giuse Hoàng Minh Thắng (Maria Valtorta 3)

Download TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI 

Viết bởi Maria Valtorta

Dịch gỉa: Nữ tu Phạm Thị Hùng CMR

Quyển 1-Chuẩn Bị.pdf

http://www.mediafire.com/view/?4bcyq77ze4ai2yo 

Quyển 2_Năm I Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?ea5acw4wttbdudd

Quyển 3-Năm II Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?o6gi6p73sk5lrhd

Quyển 4-Năm II Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?s9akma9mmdzdb26

Quyển 5-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?yrq9nq416v5s4dx

Quyển 6-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?8vl7kzjkskplk1b

Quyển 7-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?apbbvph8ndui8m3

Quyển 8-Chuẩn Bị Cuộc Tử Nạn.pdf

http://www.mediafire.com/view/?kbp3i58kizp5ad1

Quyển 9-Cuộc Tử Nạn.pdf

http://www.mediafire.com/view/?txb433uklyoke1x

Quyển 10-Vinh Quang.pdf

http://www.mediafire.com/view/?oln727ghllo7536

by Tháng Mười Một 11, 2012 Comments are Disabled Cuộc đời Chúa Giê-su (Maria Valtorta), Tâm Linh
“Matta, Matta, con lo nhiều chuyện qúa!” – Quyển 5, mục 67 và link download trọn bộ sách 10 quyển

“Matta, Matta, con lo nhiều chuyện qúa!” – Quyển 5, mục 67 và link download trọn bộ sách 10 quyển

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/11/martamaria.jpg

TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI

Viết bởi Maria Valtorta

Dịch gỉa: Nữ tu Phạm Thị Hùng CMR

67* “MATTA, MATTA, CON LO NHIỀU CHUYỆN QÚA!

        Tôi hiểu ngay rằng chúng ta còn đang ở chung quanh khuôn mặt của Maria Mađalêna, vì tôi thấy cô ta trước tiên, trong bộ y phục đơn giản mầu hoa cà, như chiếc hoa tím lạt. Không một đồ nữ trang qúi giá nào. Bộ tóc chỉ thắt bím lại gọn ghẽ sau gáy. Cô ta có vẻ trẻ hơn là thời kỳ cô ta còn là tuyệt tác phẩm của các phòng trang điểm. Cô không còn cái nhìn sợ sệt của thời còn là nữ tội nhân, cũng không còn cái nhìn xấu hổ của lúc cô nghe dụ ngôn về con chiên lạc, cũng không còn sự xấu hổ đẫm nước mắt của buổi chiều trong phòng tiệc của người pharisiêu… Bây giờ đôi mắt cô bình an, lại trở nên trong sáng như mắt trẻ thơ với nụ cười bình an rạng rỡ.

        Cô đứng tựa vào một thân cây tại chỗ giới hạn vùng sở hữu của Bêtani, và cô nhìn về con đường. Cô chờ đợi. Rồi bỗng dưng cô hát ra tiếng kêu vui mừng. Cô quay về căn nhà và la rất lớn để người ta nghe thấy. Cô kêu bằng cái giọng tuyệt vời, êm như nhung và hấp dẫn độc nhất trên đời: “Người đến!… Chị Matta ơi! Họ đã nói rất đúng. Vị Rabbi ở đây!” Và cô chạy tới để mở cái cổng nặng nề. Nó kêu ken két. Cô không để cho các đầy tớ có giờ để làm. Rồi cô chạy ra đường, hai tay giơ ra như đứa trẻ chạy đến với mẹ, và cô kêu với giọng vui mừng yêu mến: “Ôi Thầy của con!” Và cô qùi phục dưới chân Giêsu và hôn nó trong bụi đất của con đường.

        – Bình an cho con, Maria. Thầy đến nghỉ ngơi dưới mái nhà của con.

        – Ôi Thầy của con! – Maria nhắc lại trong khi ngửa mặt lên với tâm tình kính trọng, yêu mến. Khuôn mặt nói lên biết bao điều… Vừa cám ơn, vừa chúc tụng, vừa vui mừng, vừa mời mọc, sung sướng vì Người đến…

        Giêsu đặt tay trên đầu cô và giống như Người lại tha thứ cho cô. Maria đứng dậy, đi bên cạnh Giêsu để vào nội khu đất sở hữu. Trong lúc đó, Matta và các đầy tớ chạy đến. Các đầy tớ mang theo các bình và các chiếc cúp. Matta chỉ đến với tình yêu của cô, nhưng nó rất lớn lao.

        Các tông đồ nồng nhiệt uống những đồ giải khát mà các đầy tớ tiếp đãi họ. Họ cũng muốn dâng cho Giêsu trước tiên, nhưng Matta đã đi trước họ. Nàng đã lấy một ly sữa và dâng cho Giêsu, chắc nàng biết rằng thứ này làm vui lòng Người.

        Khi các môn đệ đã giãn khát, Giêsu bảo họ: “Hãy đi báo tin cho các tín hữu. Tối nay Thầy sẽ nói với họ”.

        Các tông đồ lập tức ra khỏi vườn, phân tán đi mọi ngả.

        Giêsu tiến bước giữa Matta và Maria. Matta nói: “Xin mời Thầy vào. Trong khi chờ anh Lazarô, xin Thầy giải khát và nghỉ ngơi”.

        Trong khi họ đi vào một căn phòng mát mẻ mở cửa về phía dẫy hành lang rợp bóng. Maria lẹ làng bỏ đi rồi trở lại với một vò nước. Một người đầy tớ đi theo cô với một cái thau. Nhưng chính Maria muốn rửa chân cho Giêsu. Cô tháo đôi xăng đan đầy bụi và đưa cho người đầy tớ để anh ta lau sạch, đồng thời với chiếc áo khoác  để anh ta giũ cho sạch bụi. Rồi cô nhúng các bàn chân vào thau nước mà cô đã đổ thuốc thơm, khiến cho nó có mầu hồng lạt. Cô lau sạch rồi hôn chúng. Rồi cô thay nước, để nước  sạch cho đôi tay. Trong khi chờ người đầy tớ mang xăng đan tới, cô ngồi chồm hổm trên thảm tại chân Giêsu và vuốt ve chúng. Trước khi xỏ xăng đan vào cho Người, cô lại hôn chân và nói: “Đôi chân thánh đã đi biết bao đường đất để tìm con!”

        Matta thực tế hơn trong tình yêu của cô. Cô nghĩ đến những nhu yếu của con người và cô hỏi: “Thưa Thầy, ngoài các môn đệ Thầy, còn ai tới nữa không?”

        Giêsu trả lời: “Thầy chưa biết chính xác, nhưng con có thể sửa soạn cho năm người, thêm vào số các tông đồ của Thầy”.

        Matta đi khỏi.

        Giêsu đi ra ngoài vườn rợp bóng và tươi mát. Người chỉ có chiếc áo dài mầu xanh lơ đậm đơn giản. Áo khoác của Người, Maria đã gấp lại cẩn thận và để trên ghế trong phòng. Maria cũng theo Giêsu ra. Họ đi trên những lối đi được chăm sóc cẩn thận, giữa các luống hoa, cho tới một cái ao nuôi cá, trông như một chiếc gương bị rớt giữa đám cây xanh. Nước rất trong, chỉ hơi đụng đậy chỗ nọ chỗ kia do một con cá quậy, hoặc do những giọt nước li ti của tia nước chảy vào ở giữa ao.

        Có những chiếc ghế để ngồi ở gần một cái bể rất lớn, tựa như một cái hồ nhỏ, từ đó chảy ra những dòng nước nhỏ để tưới cây. Tôi tin rằng một trong những dòng nước này cung cấp nước cho ao cá. Còn những dòng khác nhỏ hơn, dùng để tháo nước ra khi tưới cây.

        Giêsu ngồi xuống trên một cái ghế đặt ngay trên thành bể. Maria ngồi ở chân Người, trên lớp cỏ được cắt đẹp đẽ. Lúc đầu thì không ai nói gì cả. Rõ ràng là Giêsu thưởng thức sự lặng lẽ, và nghỉ ngơi trong sự tươi mát của khu vườn. Maria sung sướng nhìn Người.

        Giêsu chơi với làn nước ở trong bể. Người nhúng đầu các ngón tay vào để vẽ trên mặt nước, tạo ra những sóng nhỏ. Rồi Người nhúng hết bàn tay vào trong nước mát: “Cái nước này đẹp tuyệt vời!” Người nói.

        – Nó làm vui lòng Thầy chừng nào! – Maria nói.

        – Ừ, Maria, bởi vì nó trong. Coi này, không một vết bùn nào. Đó là nước, nhưng nó trong tựa như không có gì ở trong bể cả; tựa như nó không phải là một yếu tố vật chất, nhưng tinh thần. Chúng ta có thể đọc ở dưới đáy những lời các con cá nhỏ nói với nhau.

        – Tựa như người ta đọc ở đáy các tâm hồn trong sạch, phải không Thầy? Và Maria thở dài với một sự hối tiếc kín đáo.

        Giêsu nhận ra cái thở dài mà nàng chận lại, và Người đọc được sự ân hận mà nụ cười che đi. Người liền chữa ngay cho nỗi khổ của Maria:

        – Những tâm hồn trong sạch, họ ở đâu, Maria? Một ngọn núi dời chỗ đi còn dễ hơn một tạo vật biết duy trì sự trong sạch cho khỏi ba thứ ô uế. Có qúa nhiều thứ lay động và dậy men ở chung quanh một người trưởng thành, và họ không thể luôn luôn ngăn cản được nó thâm nhập vào bên trong. Chỉ có các trẻ nhỏ là có tâm hồn thiên thần, tâm hồn còn được bảo vệ bởi sự ngây thơ về những hiểu biết  có thể biến thành bùn. Chính vì vậy mà Thầy rất yêu chúng. Thầy nhìn thấy nơi chúng một tia của sự trong sạch vô tận. Chỉ có chúng nó là còn mang được trong mình cái kỷ niệm của Trời.

        Mẹ Thầy là người đàn bà với tâm hồn trẻ thơ, và còn hơn nữa, Mẹ là người đàn bà có tâm hồn thiên thần. Mẹ là Evà vừa ra khỏi bàn tay Chúa Cha. Maria, con hãy tưởng tượng bông huệ đầu tiên nở ra trong vườn của trái đất nó thế nào. Những người đến với nước này, họ cũng rất đẹp, nhưng người đầu tiên vừa ra khỏi bàn tay Đấng Tạo Hóa! Đó là bông hoa hay hạt kim cương? Đó là những cánh hoa hay những lá bạc tinh ròng? Vậy thì mẹ Thầy còn trong sạch hơn bông huệ đầu tiên này, bông hoa đã ướp thơm các làn gió.  Hương thơm đồng trinh bất khả xâm phạm của mẹ tràn đầy Trời và đất. Và chính sau lưng mẹ, các kẻ tốt lành của mọi dòng thế kỷ sẽ bước theo.

        Thiên Đàng là ánh sáng, hương thơm và hòa hợp. Nhưng nếu ở trong đó, Chúa Cha không được sung sướng chiêm ngắm Đấng Hoàn Toàn Đẹp Đẽ, đấng đã làm cho trái đất trở thành Thiên Đàng; nếu trong tương  lai, Thiên Đàng không được chiếm hữu bông huệ sống, trong đó có ba cái bầu nhị cái bằng lửa của Thiên Chúa Ba Ngôi: Ánh sáng, hương thơm và hòa hợp, thì niềm vui của Thiên Đàng sẽ giảm đi một nửa. Sự trong sạch của Mẹ Thầy sẽ là viên ngọc của Thiên Đàng. Nhưng Thiên Đàng thì vô giới hạn! Con sẽ nói gì về một ông vua chỉ có một viên ngọc trong kho tàng của ông? Dù đó là viên ngọc tuyệt vời?

        Khi Thầy sẽ mở cửa Nước Trời… – đừng thở dài, Maria, chính vì việc này mà Thầy đã tới – thì nhiều người công chính và các trẻ nhỏ sẽ vào. Một cơ đội trong trắng ở đàng sau cẩm bào đỏ của Đấng Cứu Thế. Nhưng như vậy cũng còn qúa ít về số các viên ngọc, là các công dân của Jêrusalem đời đời. Và rồi… Khi giáo lý về Sự Thật và Sự Thánh Hóa được người ta biết đến, khi cái chết của Thầy ban lại Ân Sủng cho loài người, thì làm sao các người trưởng thành có thể chinh phục nước Trời, nếu đời sống tội nghiệp của con người là một vũng bùn liên tục làm cho họ dơ bẩn? Vậy có phải lúc đó Thiên Đàng của Thầy chỉ thuộc về đám trẻ nhỏ thôi sao? Ồ, không. Phải biết trở nên nhỏ, nhưng Nước Trời cũng mở ra cho các người lớn nữa.

        Giống như trẻ nhỏ… Đó là sự trong sạch. Con thấy làn nước này không? Nó có vẻ rất trong. Nhưng hãy quan sát: Chỉ cần với một cây sậy, Thầy quậy ở đáy bể là nó thành đục. Các đồ mục nát và bùn nổi lên. Sự trong suốt của nó trở thành vàng vàng, và sẽ không ai uống nó nữa. Nhưng nếu Thầy nhấc cái que ra, sự bình an trở lại, nước sẽ từ từ lấy lại sự trong suốt và vẻ đẹp của nó. Cái que là tội lỗi. Các linh hồn cũng vậy. Con hãy tin: sự sám hối là cái thanh tẩy linh hồn…

        Thình lình Matta chạy tới, thở dốc: “Maria, em còn ở đây sao? Chị có biết bao điều phải lo!… Thời giờ qua đi, các khách sắp sửa tới mà còn bao thứ phải làm: các nữ đầy tớ thì lo làm bánh, các nam đầy tớ thì lo chặt thịt và nấu nướng. Chị phải lo bàn ghế, khăn  bàn và đồ uống. Nhưng còn phải hái trái cây và pha nước bạc hà và nước mật ong…”

        Maria nghe các lời phàn nàn của chị cô chút đỉnh, rồi với nụ cười sung sướng, cô tiếp tục nhìn Giêsu và không nhúc nhích khỏi chỗ.

        Matta yêu cầu sự trợ giúp của Giêsu: “Thầy coi, con nổi nóng chừng nào! Thầy cho là chính đáng để con sửa soạn mọi thứ một mình sao? Thầy bảo nó phụ với con chứ!” Matta thực tình tức giận.

        Giêsu nhìn bà với một nụ cười nửa êm dịu, nửa như chế nhạo.

        Matta hơi bị xúc phạm: “Thầy ơi, con nói đứng đắn đó. Thầy coi nó nhàn hạ chừng nào! Trong khi con làm việc thì nó ngồi ở đây để nhìn…”

        Giêsu làm vẻ nghiêm trang hơn: “Matta, không phải là nhàn hạ, đó là tình yêu. Nhàn hạ là trước đây cơ. Con đã khóc biết bao vì sự nhàn hạ bất xứng đó. Nước mắt của con đã làm cho lẹ làng sự vận động của Thầy để cứu nó cho Thầy, và để trả nó cho tình thương ngay thẳng của con. Con muốn cãi cọ với nó về tình yêu của nó đối với Vị Cứu Tinh của nó sao? Con thích thà rằng nó ở xa đây để khỏi thấy con làm việc, và như vậy nó cũng ở xa Thầy sao? Matta, Matta! Vậy Thầy có phải nói với con rằng nó (và Giêsu để tay lên đầu Maria) đã đến từ rất xa, mà đã vượt qua con trong tình yêu không? Thầy có phải nói với con rằng nó, trước đây chẳng biết nói một lời nào tốt, mà bây giờ là kẻ uyên bác trong khoa học của tình yêu không? Hãy để cho nó bình an. Trước nó đã bệnh qúa nặng, bây giờ là thời kỳ dưỡng bệnh để sức khỏe trở lại bằng cách uống những đồ uống bổ dưỡng. Nó đã qúa khổ sở, bây giờ ra khỏi cơn ác mộng, nó nhìn vào nó và chung quanh nó, và nó khám phá ra cái ‘chính mình’ mới và thế giới mới. Hãy để nó được an toàn để làm việc đó. Chính với cái ‘mới’ của nó, nó phải quên qúa khứ để chinh phục cái vĩnh cửu… Nó sẽ chinh phục không phải chỉ bằng việc làm, mà còn bằng sự thờ phượng. Sẽ có một phần thưởng cho những kẻ cho vị tông đồ hay vị tiên tri một miếng bánh, nhưng một phần thưởng gấp đôi sẽ được ban cho kẻ quên cả ăn uống vì yêu Thầy, bởi vì nó có một tâm hồn lớn hơn thể xác, và một tâm hồn biết yêu mạnh hơn những nhu cầu của con người, dù là hợp pháp. Matta, con lo lắng nhiều chuyện qúa! Đối với nó, chỉ có một chuyện thôi, và chỉ một chuyện này là đủ cho tâm hồn nó và cho Chúa của nó, cũng là Chúa của con. Con hãy bỏ rơi những chuyện vô ích. Hãy bắt chước em con. Maria đã chọn phần tốt nhất, là phần sẽ không bao giờ bị lấy mất. Khi mọi nhân đức sẽ qua đi, bởi vì nó không cần thiết cho các công dân của Nước Trời nữa, thì chỉ còn lại nhân đức duy nhất là Đức Ái. Nó sẽ tồn tại muôn đời. Một mình nó là Bà Hoàng. Maria đã chọn nó, đã giữ nó như cái khiên và cây gậy. Với nó giống như với cánh của các thiên thần, nó sẽ tới được Nước Trời của Thầy”.

        Matta bị hạ giá, cúi đầu và bỏ đi. Maria nói để biện hộ cho chị cô:

        – Chị con yêu Thầy lắm, vì chị chịu cực rất nhiều để tôn vinh  Thầy…

        – Thầy biết, và chị ấy sẽ được thưởng. Nhưng chị ấy cần được thanh lọc, giống như người ta thanh lọc cái nước này, về cái lối suy nghĩ loài người của chị ấy. Con nhìn coi, cái nước này lại trở nên trong khi chúng ta nói. Matta sẽ được thanh lọc nhờ những lời Thầy đã nói với chị ấy. Con… con được, nhờ sự sám hối chân thành của con…

        – Không, thưa Thầy, bởi ơn tha thứ của Thầy. Sự sám hối của con không đủ để tẩy rửa tội lỗi nặng nề của con…

        – Nó đã đủ và sẽ đủ cho tất cả các chị em sẽ biết bắt chước con, cho tất cả những kẻ tội nghiệp, bị tàn tật về tâm hồn. Sự sám hối chân thành là cái lưới để lọc, rồi tình yêu sẽ là chất ngăn ngừa cho khỏi bị dơ trở lại. Đó là lý do vì sao các người mà cuộc sống đã làm cho trưởng thành và tội lỗi, có thể lại trở nên sạch tội như các trẻ nhỏ và được vào Nước Thầy giống như chúng. Bây giờ chúng ta về nhà thôi, để Matta không phải ở lâu qúa trong đau khổ. Chúng ta hãy mang tới cho chị ấy nụ cười của người bạn và người em.

        Chúa Giêsu nói :

        “Không cần bình luận. Dụ ngôn về nước đã là một sự bình luận để thi hành sự sám hối trong các con tim.

        Như vậy là con đã có cái vòng tròn đầy đủ về Maria Mađalêna. Từ sự chết đến sự sống. Đó là sự phục sinh lớn nhất trong Tin Mừng của Cha. Cô ta đã phục sinh từ bảy cái chết. Cô ta đã trở lại với sự sống. Con đã thấy cô ta giống như một cây hoa mọc lên ở giữa bùn, và cái cộng của bông hoa mới càng ngày càng vươn cao, rồi nở hoa cho Cha, tỏa hương thơm cho Cha, chết cho Cha. Con đã thấy cô ta là tội nhân, rồi ước ao tới nguồn nước, rồi sám hối, rồi được tha thứ, rồi yêu mến, rồi nghiêng xuống cách thương xót trên cơ thể bất động của Chúa cô, rồi là tôi tá của người Mẹ mà cô yêu mến, bởi vì đó là Mẹ Cha. Sau cùng, sám hối tại cửa Thiên Đàng.

        Hỡi các linh hồn sợ sệt, hãy học biết không phải sợ hãi Cha khi đọc đời sống của Maria Magđala.

        Hỡi các linh hồn biết yêu, hãy học ở nàng để biết yêu với sự nồng nàn của Sêraphim.

        Hỡi các linh hồn đã lầm lạc, hãy học ở nàng cái khoa học chuẩn bị cho Nước Trời.

        Cha chúc lành cho tất cả các con để giúp các con trỗi dậy. Hãy đi bằng an”.

 Dịch gỉa: Nữ tu Phạm Thị Hùng CMR

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/05/cavathanhgia.gif

          GHI CHÚ: Được sự cho phép của dịch gỉa, và sự khuyến khích của Linh mục Giuse Hoàng Minh Thắng, TĐMVSK xin gởi đường link trọn bộ 10 quyển để đáp ứng cho những ai muốn download và đọc ngay bộ sách vô gía này.


Download TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI 

Viết bởi Maria Valtorta

Dịch gỉa: Nữ tu Phạm Thị Hùng CMR

Quyển 1-Chuẩn Bị.pdf

http://www.mediafire.com/view/?4bcyq77ze4ai2yo 

Quyển 2_Năm I Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?ea5acw4wttbdudd

Quyển 3-Năm II Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?o6gi6p73sk5lrhd

Quyển 4-Năm II Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?s9akma9mmdzdb26

Quyển 5-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?yrq9nq416v5s4dx

Quyển 6-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?8vl7kzjkskplk1b

Quyển 7-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?apbbvph8ndui8m3

Quyển 8-Chuẩn Bị Cuộc Tử Nạn.pdf

http://www.mediafire.com/view/?kbp3i58kizp5ad1

Quyển 9-Cuộc Tử Nạn.pdf

http://www.mediafire.com/view/?txb433uklyoke1x

Quyển 10-Vinh Quang.pdf

http://www.mediafire.com/view/?oln727ghllo7536

by Tháng Mười Một 2, 2012 Comments are Disabled Cuộc đời Chúa Giê-su (Maria Valtorta), Tâm Linh
Cuộc đời Chúa Giêsu – Quyển 1,9 -10

Cuộc đời Chúa Giêsu – Quyển 1,9 -10

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/10/dangchua.jpg

9* “BÔNG HUỆ CỦA MÁ!  TRONG BA NĂM NỮA, CON SẼ Ở ĐÂY”

         Tôi thấy Joakim và Anna cùng với Zacari và Êlisabet. Họ ra

khỏi một căn nhà ở Jêrusalem, chắc chắn là nhà bạn hữu hay bà

con. Họ hướng về Đền Thờ để làm nghi thức thanh tẩy.

     Anna ẵm con bà trong tay. Cô bé được quấn tã rất cẩn thận, nhất

là được bọc trong một cái mền len nhẹ, chắc là rất mềm và ấm. Với

biết bao cẩn thận và biết bao tình yêu, bà ẵm và canh chừng tạo vật

bé nhỏ của bà. Thỉnh thoảng bà lật mép tấm vải mịn và ấm lên để

coi xem Maria có thở dễ dàng không, rồi bà phủ trở lại để tránh khí

lạnh của một ngày mùa đông đẹp trời nhưng rất lạnh.

     Êlisabét cầm các gói trong tay. Joakim cầm sợi giây để dắt hai

con chiên lớn và rất trắng. Zacari không mang gì cả. Ông rất đẹp

trong y phục vải gai trắng với chiếc áo khoác nặng bằng len, cũng

mầu trắng. Một Zacari rất trẻ hơn là ông mà tôi nhìn thấy trong thị

kiến về sinh nhật của ông Tẩy Giả, và còn đầy sinh lực. Êlisabét

cũng là một đàn bà đứng tuổi, nhưng còn tươi mát. Mỗi lần Anna

nhìn cô bé, bà cũng cúi xuống như xuất thần trên khuôn mặt nhỏ

đang ngủ. Bà cũng rất đẹp trong cái áo mầu xanh lơ ngả mầu tím

đậm, và khăn voan phủ trên đầu, rủ xuống vai và rủ trên áo khoác

mầu đậm hơn áo trong.

      Nhưng nhất là Joakim và Anna, rất trịnh trọng trong bộ y phục

ngày lễ. Trái với thói quen, ông không mặc áo mầu nâu đậm, nhưng

một áo dài mầu đỏ đậm – như mầu ngày nay chúng ta gọi là mầu đỏ

thánh Giuse – và các tua của áo khoác thì mới tinh và đẹp. Ông

cũng mang trên đầu một tấm khăn hình chữ nhật, có quấn quanh

một cái đai tròn bằng da. Tất cả y phục của ông đều mới và mỏng.

     Anna thì ôi! Hôm nay không mặc mầu đậm. Bà mặc một áo

mầu vàng rất lợt, hầu như ngà cũ, được thắt lại ở lưng, ở cổ và cổ

tay. Đầu bà phủ khăn voan rất mỏng, dệt hoa kiểu như hàng gấm,

cũng được giữ ở trán bởi một băng qúi và mỏng. Ở cổ có đeo giây

chuyền của thợ bạc và ở cổ tay có các vòng xuyến. Bà giống như

Bà Hoàng, xứng với những thứ bà mang trên áo, nhất là áo khoác

vàng lợt, viền theo kiểu Hy Lạp, thêu rất đẹp và hợp mầu sắc.

     – Tôi trông chị giống như trong ngày đám cưới của chị. Lúc đó

tôi còn là một con bé, nhưng tôi còn nhớ chị rất đẹp và sung sướng.

     – Nhưng bây giờ tôi còn hơn vậy nữa… Tôi đã muốn mang những

đồ trang sức đó cho nghi lễ này. Tôi đã giữ nó cho ngày lễ này… Và

 tôi không hy vọng được mang nữa cho một ngày như vầy.

     – Chúa đã yêu chị nhiều lắm – Êlisabét nói với tiếng thở dài.

     – Chính vì vậy mà tôi dâng cho Người cái mà tôi yêu nhất: bông

hoa này… Bông hoa của tôi.

     – Chị sẽ làm cách nào để dứt nó ra khỏi lòng chị khi đến giờ?

     – Tôi sẽ nhớ lại là tôi không có nó mà Thiên Chúa đã ban nó cho

tôi. Tôi sẽ luôn luôn sung sướng hơn vào giờ đó, khi tôi biết nó ở

trong Đền Thờ. Tôi sẽ bảo mình: “Nó cầu nguyện ở gần nhà tạm,

nó cũng cầu nguyện Thiên Chúa Israel cho má nó”, và tôi sẽ cảm

thấy bình an. Tôi sẽ cảm thấy một bình an lớn lao hơn khi tôi tự nói:

“Nó hoàn toàn thuộc về Người. Khi hai người già này, những kẻ đã

nhận được nó từ trời, không còn nữa, thì Người, Thiên Chúa, sẽ vẫn

là Cha nó”. Hãy tin tôi, tôi chắc chắn điều đó. Đứa trẻ này không

thuộc về chúng tôi. Tôi không còn ở trong tình trạng làm được gì…

mà Người đã đặt nó vào lòng tôi, ơn huệ của Thiên Chúa, để lau

nước mắt cho tôi, để củng cố niềm hy vọng và lời cầu nguyện của

chúng tôi. Vậy nó thuộc về Người. Đối với chúng tôi, chúng tôi là

những người được sung sướng để canh giữ nó… Nguyện cho Người

được chúc tụng.

      Họ tới các bức tường của Đền Thờ.

     – Trong khi qúi vị tới cửa Nicanore, tôi đi báo cho thầy cả, rồi tôi

cũng sẽ đến với qúi vị – Zacari nói, và ông biến đi sau cái cửa vòm

cung dẫn tới một sân rộng có các hành lang bao quanh.

Nhóm người tiếp tục đi qua nhiều sân kế tiếp nhau, bởi vì – tôi

không biết tôi đã bao giờ nói tới chưa – nội khu đền thờ không cùng

một mặt bằng, nhưng nó lên cao bởi nhiều chặng liên tiếp càng lúc

càng cao. Người ta vào mỗi chặng bằng các bậc thềm, và ở mỗi

chặng có một sân nhỏ, các hành lang và các lối vào được trang

điểm lộng lẫy bằng đá cẩm thạch, hoặc đồng hay vàng.

      Trước khi tới nơi hẹn, họ dừng lại để lấy ở giỏ ra các thứ họ

mang theo: Các bánh tráng, tôi thấy hình như vậy, nó rộng và bằng

phẳng, có trét bơ; bột trắng, hai con bồ câu ở trong lồng bằng cây

lác, và hai đồng tiền bằng bạc rất lớn: chắc chắn là đồng tiền,

nhưng nó nặng chừng nào! May mắn là thời đó không có túi, nếu

không thì nó làm thủng đáy túi.

     Đây là cái cửa Nicanore rất đẹp: Tất cả các công việc chạm trổ

bằng đồng khối dát bạc. Zacari đã ở bên cạnh một thầy cả, oai

phong trong y phục vải gai của ông. Anna nhận sự vảy nước, có lẽ

nước xá giải. Rồi người ta ra lệnh cho bà tiến lên trước bàn thờ Hy

Tế.

     Đứa trẻ không còn ở trong tay mẹ. Êlisabét đã ẵm nó và bà còn

đứng ở bên ngoài cửa vào. Đến lần ông, Joakim tiến vào đàng sau

vợ ông. Ông đi giật lùi để kéo một con chiên tội nghiệp, nó kêu bê

bê. Còn tôi… Tôi làm giống như cảnh thanh tẩy của Maria: Tôi

nhắm mắt lại để khỏi thấy cảnh giết chóc này.

     Bây giờ Anna đã được thanh tẩy.

     Zacari nói nhỏ mấy câu gì với bạn đồng nghiệp của ông, ông

này nghe với nụ cười, rồi ông lại với nhóm người đã tái tụ để chúc

 mừng cha mẹ đứa trẻ vì niềm vui của họ, và mừng đức tin của họ

vào lời hứa. Rồi ông tiếp nhận con chiên thứ hai, với bột và bánh

tráng.

     – Vậy là đứa trẻ này được dâng hiến cho Chúa? Phúc lành sẽ đi

kèm nó cũng như với ông bà. Đây, Anna đang tới. Bà là một trong

các cô giáo: Anna Phanuel thuộc chi tộc Azer. Lại đây bà ơi! Đứa

trẻ này người ta dâng hiến vào Đền Thờ. Bà sẽ là cô giáo của nó,

và dưới sự trông coi của bà, nó sẽ tăng trưởng trong sự thánh thiện,

như một Bánh Thánh để ca tụng.

     Anna Phanuel, tóc đã trắng xóa, vuốt ve đứa trẻ, nó thức dậy và

mở đôi mắt thơ ngây, ngạc nhiên nhìn mầu trắng toát này, những

vàng bạc này, sáng loáng dưới mặt trời.

     Chắc hẳn nghi lễ đã chấm dứt. Tôi không thấy nghi thức đặc biệt

để dâng hiến bé Maria. Có lẽ chỉ cần nói với thầy cả, nhất là nói

với Thiên Chúa ở gần nơi Thánh là đủ rồi.

     – Tôi muốn dâng của lễ cho Đền Thờ và vào chỗ mà tôi đã nhìn

thấy ánh sáng hồi năm ngoái – Anna nói.

     Họ vào đó, có Anna Phanuel đi hộ vệ. Họ không vào Đền Thờ

chính thức. Ta hiểu điều đó, vì đây là các phụ nữ và đứa nhỏ là con

gái. Vậy họ không vào chỗ mà Maria sẽ đến để dâng hiến Con Mẹ.

Nhưng ở rất gần cái cửa mở rộng, họ nhìn vào chỗ tối mờ mờ ở bên

trong, nơi vọng ra các tiếng hát êm đềm của các cô gái trẻ, nơi các

ánh sáng qúi tỏa ra một vùng sáng vàng trên hai dẫy đầu trùm khăn

trắng: hai hàng bông huệ thực sự.

     – Bông huệ của má! Trong ba năm nữa, con sẽ ở đây – Anna hứa

với Maria, cô như bị thôi miên, nhìn vào phía trong và mỉm cười với

tiếng ca chậm rãi các thánh vịnh.

     – Làm như nó hiểu! – Anna Phanuel nói. “Một cô bé đẹp, nó sẽ

rất thân thiết đối với tôi, giống như nó thuộc về tôi, người mẹ. Tôi

hứa điều đó với bà, nếu tuổi tác còn cho tôi thi hành”.

     – Bà ơi, bà sẽ ở đó – Zacari nói. “Bà sẽ nhận nó vào số các cô gái

trẻ được dâng hiến. Tôi cũng sẽ ở đó. Tôi muốn ở đây vào ngày đó

để bảo nó cầu nguyện cho chúng tôi ngay từ khi nó nhập Đền…” Và

ông nhìn vợ ông. Bà hiểu và thở dài.

     Nghi lễ chấm dứt. Anna Phanuel rút lui, trong khi những người

khác ra khỏi Đền Thờ, nói chuyện với nhau.

     Tôi nghe Joakim nói: “Không phải chỉ có hai con chiên tốt nhất

của tôi mà thôi. Tôi có thể dâng tất cả để ca tụng Chúa vì niềm vui

này”.

     Tôi không thấy gì khác nữa.

10* “ĐÂY, CON TRẺ VẸN TOÀN VỚI QỦA TIM BỒ CÂU”

       Chúa Giêsu nói:

       Salômôn đã nói trong sách Khôn Ngoan: “Nếu ai bé nhỏ, hãy

đến với ta”. Và thực sự, từ pháo đài của Người, từ các bức tường

của kinh thành Người, Đấng Khôn Ngoan đời đời đã nói với con trẻ

đời đời: “Hãy đến với Ta”. Người nóng lòng muốn chiếm hữu cô.

Sau này, người con của Con Trẻ hoàn toàn trong sạch sẽ nói: “Hãy

để các trẻ nhỏ đến với Thầy, vì nước Trời thuộc về chúng, và ai

 không trở nên giống như chúng thì sẽ không có chỗ trong nước

Thầy”.

      Các tiếng nói gặp nhau, và khi tiếng nói từ trời kêu với bé Maria:

“Hãy đến với Ta”, thì tiếng của Con Người nói lên khi nghĩ đến Mẹ

Người: “Hãy đến với Thầy, nếu các con biết làm trẻ nhỏ”.

Gương mẫu này, Cha ban cho các con nơi Mẹ Cha.

     Đây là con trẻ vẹn toàn với qủa tim bồ câu, đơn sơ và trong

sạch, đấng mà năm tháng và sự tiếp xúc với đời không thể đụng tới

bằng sự tàn bạo và trụy lạc của nó, hay bằng các con đường quanh

co dối trá của nó. Maria đã từ chối sự tiếp xúc này. Hãy đến với

Cha trong khi nhìn ngắm Mẹ.

     Con là kẻ đã nhìn thấy Mẹ, hãy nói cho Cha: cái nhìn trẻ thơ của

Người có khác với cái nhìn mà con đã thấy nơi Người ở dưới chân

Thánh Giá, hay trong sự hân hoan của lễ Hiện Xuống, hay vào giờ

mà mu mắt Người đã che lấy đôi mắt linh dương của Người trong

giấc ngủ sau cùng không? Không. Đây là cái nhìn không rõ ràng và

ngạc nhiên của trẻ nhỏ, rồi sẽ là cái nhìn ngạc nhiên và kính trọng

của sự Truyền Tin, rồi cái nhìn hạnh phúc của bà mẹ ở Bétlem, rồi

cái nhìn thờ lạy của người môn đệ đầu tiên và cao cả của Cha, rồi

cái nhìn tan nát của cực hình Golgôta, rồi cái nhìn rạng rỡ của sự

Sống Lại và Hiện Xuống, rồi cái nhìn che phủ trong giấc ngủ xuất

thần của linh thị sau cùng. Nhưng dù nó mở ra để nhìn lần đầu cũng

như khi nó kiệt quệ khép lại trước ánh sáng sau cùng, sau khi đã

thấy bao là niềm vui và ghê sợ, con mắt vẫn thanh quang, trong

sạch; một mảnh trời yên tĩnh, sáng ngời, luôn luôn giống nhau dưới

vầng trán của Maria. Giận dữ, dối trá, kiêu căng, ô uế, thù ghét, tò

mò… không bao giờ làm dơ bẩn nó bằng những làn mây ám khói

của chúng.

     Đó là con mắt nhìn về Thiên Chúa với tình yêu ở giữa nước mắt

hay tiếng cười. Con mắt mà vì tình yêu Thiên Chúa để vuốt ve, tha

thứ và chịu đựng tất cả. Và tình yêu đối với Thiên Chúa làm cho nó

không thể bị tổn thương trước các tấn công của Sự Ác, cái đã bao

lần dùng con mắt để thâm nhập vào tâm hồn. Con mắt trong sạch,

bình an, ân phúc mà các kẻ trong sạch, các thánh và các kẻ say mê

Thiên Chúa có được.

     Cha đã nói: “Con mắt là ánh sáng của cơ thể. Nếu mắt trong

sạch, tất cả cơ thể đều ở trong ánh sáng. Nếu mắt mờ ám, toàn thân

sẽ ở trong tối tăm”. Các thánh có con mắt này, nó là ánh sáng của

tâm hồn và hạnh phúc cho thân xác, vì cũng như Maria, suốt đời họ

chỉ nhìn Thiên Chúa, và còn hơn nữa: Họ chỉ tưởng nhớ tới Thiên

Chúa.

     Hỡi tiếng nói nhỏ, Cha sẽ giải thích cho con ý nghĩa của lời sau

cùng mà Cha đã nói với con.

Download TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI 

Viết bởi Maria Valtorta

Dịch gỉa: Nữ tu Phạm Thị Hùng CMR

Quyển 1-Chuẩn Bị.pdf

http://www.mediafire.com/view/?4bcyq77ze4ai2yo 

Quyển 2_Năm I Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?ea5acw4wttbdudd

Quyển 3-Năm II Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?o6gi6p73sk5lrhd

Quyển 4-Năm II Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?s9akma9mmdzdb26

Quyển 5-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?yrq9nq416v5s4dx

Quyển 6-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?8vl7kzjkskplk1b

Quyển 7-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?apbbvph8ndui8m3

Quyển 8-Chuẩn Bị Cuộc Tử Nạn.pdf

http://www.mediafire.com/view/?kbp3i58kizp5ad1

Quyển 9-Cuộc Tử Nạn.pdf

http://www.mediafire.com/view/?txb433uklyoke1x

Quyển 10-Vinh Quang.pdf

http://www.mediafire.com/view/?oln727ghllo7536

TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI – QUYỂN 1,8

TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI – QUYỂN 1,8

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/10/OurLadySlayingSatan.jpg

8* “LINH HỒN NGƯỜI ĐÃ XUẤT HIỆN ĐẸP ĐẼ
NGUYÊN VẸN NHƯ KHI THIÊN CHÚA NGHĨ TỚI”

          Chúa Giêsu nói:

          Hãy chỗi dậy mau, hỡi bạn nhỏ của Cha. Cha ước ao nồng nàn

muốn mang con đi với Cha trong trời xanh Thiên Quốc của sự chiêm

ngắm về đức đồng trinh của Mẹ Maria. Con sẽ ra khỏi đó với tâm

hồn tươi mát giống như con vừa được tạo dựng bởi Chúa Cha, một

Evà nhỏ, chưa biết gì về xác thịt. Con sẽ ra khỏi đó với tâm hồn

được thắp sáng, vì con sẽ được chìm ngập trong tuyệt tác phẩm của

Thiên Chúa. Con sẽ ra khỏi đó với tất cả con người của con đầy

tràn tình yêu, vì con biết hiểu như Thiên Chúa biết yêu. Nói về sự

thụ thai của Mẹ Maria, đấng không tì vết, có nghĩa là ngụp lặn

trong trời xanh, trong ánh sáng, trong tình yêu. Hãy đến và hãy đọc

về vinh quang của Người trong sách của tiền nhân:

          “Thiên Chúa đã có ta từ khởi đầu các công trình của Người, từ

khởi nguyên, trước việc tạo dựng. Người đã đặt ta làm nguồn gốc

của mọi loài, trước khi trái đất được tạo dựng. Khi các vực thẳm

chưa hiện hữu, Người đã sinh ra ta. Khi các suối nước sự sống chưa

chảy, và các trái núi chưa được dựng nên với cái khối nặng nề vĩ

đại của chúng, và các ngọn đồi chưa được phơi ra dưới mặt trời, thì

ta đã được sinh ra. Khi Thiên Chúa dựng nên trái đất, sông ngòi và

cái trục của thế giới thì ta đã có. Ta đã hiện diện lúc Người sửa

soạn bầu trời. Qủa vậy, khi Người dùng một định luật bất biến để

đóng vực thẳm lại dưới bầu trời; khi người củng cố sự vững bền của

vòm trời ở trên cao, và khi Người làm ra các nguồn nước sự sống,

khi Người đặt định giới hạn cho biển cả và áp đặt các định luật cho

khối nước; khi Người truyền cho khối nước không tràn bờ, khi Người

 đặt nền móng cho trái đất, ta đã ở với Người để tổ chức mọi sự.

          Trong niềm vui vô tận, ta vui chơi giữa vũ trụ…”

Các con đã áp dụng những lời này cho Sự Khôn Ngoan, nhưng

nó nói về Mẹ, người mẹ hoàn toàn đẹp đẽ, hoàn toàn thánh thiện;

người mẹ Đồng Trinh của Đấng Khôn Ngoan là chính Cha, một

cách cá nhân: Cha, người đang nói với con. Cha đã muốn con viết

những câu thơ đầu của thi ca này trên đầu cuốn sách nói về Mẹ, để

người ta nhận ra và biết rằng Mẹ là sự khuây khỏa, là niềm vui của

Thiên Chúa, nguyên nhân của niềm vui vững bền, toàn vẹn, mật

thiết của Thiên Chúa độc nhất, Ba Ngôi, đấng cai trị các con, yêu

thương các con; đấng mà loài người đã làm cho bao lý do buồn. Mẹ

là lý do đã làm cho Thiên Chúa để cho giống người trường tồn,

trong khi vào lúc thử thách đầu tiên, nó đã đáng bị tiêu diệt; Mẹ là

nguyên nhân sự tha thứ mà các con đã nhận được.

          Có Maria để được yêu bởi Người! Ôi! Điều đó đã đáng chịu khổ

để tạo dựng loài người, để cho họ sống, để hạ lệnh rằng họ sẽ được

tha thứ, để có một Trinh Nữ Đẹp, một Trinh Nữ Thánh, một Trinh

Nữ Vô Nhiễm, một Trinh Nữ được chiếm hữu bởi Tình Yêu, người

con gái chí yêu, người Mẹ hoàn toàn trong sạch, vị Hiền Thê yêu

dấu! Thiên Chúa đã ban ơn cho các con, và còn ban cho các con

hơn nữa để được chiếm hữu Tạo Vật đã là sự ngon lành thỏa thích

của Người, là mặt trời của Mặt Trời Người, là hoa của vườn Người.

Và Người còn tiếp tục cho các con biết bao qua Mẹ, bởi lời xin của

Mẹ, vì niềm vui của Mẹ, bởi vì niềm vui của Mẹ hòa lẫn với niềm

vui của Thiên Chúa, và làm gia tăng nó bằng những ánh sáng làm

cho ánh sáng vĩ đại của Thiên Đàng lấp lánh, và mỗi tia sáng đều

là một ân huệ cho vũ trụ, cho loài người, cho ngay cả chính các

Thánh, những đấng hằng trả lời trong một tiếng kêu Alleluia linh

hoạt cho hết mọi phép lạ của Thiên Chúa. Mẹ được tạo dựng bởi

Thiên Chúa, bởi ước muốn được nhìn nụ cười rạng rỡ niềm vui của

đức Trinh Nữ.

          Thiên Chúa đã muốn ban một ông vua cho cái vũ trụ mà

Người đã tạo dựng nên từ hư vô, một ông vua để làm kẻ thứ nhất

trong thế giới vật chất, giữa tất cả các loài từ vật chất mà ra, và chính

nó ũng là vật chất; một ông vua chỉ hơi kém Thiên Chúa về bản tính

siêu nhiên, được phối hợp với Ân Sủng như nó đã là trong sự vô tội

của những ngày đầu tiên của nó. Những Trí Tuệ Tối Cao biết hết

mọi biến cố dù xa xôi nhất trong các chiều sâu của mọi thế kỷ,

đấng liên tục nhìn thấy mọi sự đã có, đang có và sẽ có, và trong khi

Người nhìn xem qúa khứ và quan sát hiện tại, Người nhìn sâu vào

tương lai xa xôi nhất, và Người biết cả thế nào là cái chết của con

người sau cùng. Tất cả những điều đó không lộn xộn, cũng không

gián đoạn. Người luôn luôn biết rằng ông vua mà người tiên liệu,

được tạo dựng để là một Bán Thiên Chúa ở bên cạnh Người trên

trời, kẻ thừa tự của Chúa Cha, được đi vào Nước Người trong tình

trạng trưởng thành, sau khi đã sống trong nhà mẹ nó – là trái đất mà

người đã tạo nên – trong suốt thời thơ ấu của người Con Thiên Chúa

trong thời kỳ nó cư ngụ trên trái đất, Người không phải không biết

 rằng nó sẽ chống lại chính nó bằng cách phạm tội ác là giết chết

Ân Sủng ở trong nó, và tội ăn cắp là chạy trốn Thiên Đàng.

          Vậy tại sao Người lại tạo dựng nên nó? Chắc chắn nhiều người

sẽ tự hỏi như vậy. Các con có thích hơn là thà đừng có mình không?

Với chính Mẹ, mẹ chẳng đáng sống những ngày trên mặt đất này

để được biết và cảm phục vẻ đẹp vô tận mà bàn tay Thiên Chúa đã

tung vãi trong vũ trụ, mặc dầu nghèo, trần trụi, và bị trở nên cay

đắng bởi sự độc ác của các con sao?

          Để cho ai mà Người đã làm ra các tinh tú, các hành tinh vận

chuyển như các mũi tên băng qua bầu trời, hoặc chuyển đi có vẻ

như chậm chạp nhưng hùng vĩ trong lộ trình sao xẹt của nó, để cho

các con ánh sáng và các mùa; cho các con mãi mãi, bất dịch, nhưng

luôn luôn thay đổi một trang mới để đọc trên không trung vào mỗi

buổi chiều, mỗi tháng, mỗi năm? Tựa như chúng muốn nói với các

con: “Hãy quên cái nhà tù, hãy để ra một bên những quảng cáo

đầy sự tối ám, hôi thối, dơ bẩn, độc hại, gian trá, phạm thượng, đồi

trụy của các bạn, và hãy cất cao mình lên, ít là bằng cái nhìn, về

vùng tự do vô biên giới của các tầng trời; hãy làm cho các bạn một

linh hồn trong sáng khi nhìn bao vẻ thanh quang. Hãy cho các bạn

một nguồn sáng và mang nó vào trong nhà tù tối đen của các bạn.

Hãy đọc các lời mà chúng tôi đã viết khi hát bài đồng ca thiên thể

của chúng tôi, du dương hơn chiếc phong cầm của Đại Thánh

Đường, những lời mà sự huy hoàng của chúng tôi viết, những lời mà

tình yêu của chúng tôi viết, bởi vì đấng đã ban cho chúng tôi hiện hữu

luôn luôn hiện diện đối với chúng tôi, và chúng tôi yêu Người vì đã

ban cho chúng tôi sự hiện hữu này, sự huy hoàng rực rỡ này, những

chuyển động này, sự tự do này và vẻ đẹp này ở giữa trời xanh đầy

dịu ngọt. Ở bên ngoài những thứ đó, chúng tôi thấy một trời xanh

còn tuyệt diệu hơn: Thiên Đàng. Chính bản thể của chúng tôi cho

chúng tôi hoàn thành được phần thứ hai của giới răn yêu thương,

bằng cách yêu các bạn là người đồng loại hoàn vũ của chúng tôi;

bằng cách yêu các bạn bởi tặng vật mà chúng tôi cho các bạn trong

khi cho các bạn phương hướng, ánh sáng, sức nóng và vẻ đẹp. Hãy

đọc lời mà chúng tôi nói cho các bạn, chính là lời đã gợi ra cho

chúng tôi: tiếng ca, sự rực rỡ, niềm vui của chúng tôi: Thiên Chúa”.

          Để cho ai mà người đã làm ra mầu xanh trong biếc này, chiếc

gương của trời, con đường về trái đất, nụ cười của dòng nước, tiếng

nói của đợt sóng? Chúng cũng là lời: tiếng xào xạc của tơ lụa, tiếng

cười bình an của trẻ thơ, tiếng thở dài của người già nhớ nhung và

khóc; cái tát của kẻ hung bạo, các chiếc sừng húc, các tiếng rống,

các tiếng gầm… Chúng luôn luôn không ngừng nói: “Thiên Chúa”.

Biển cả là để cho các con, cũng giống như bầu trời và các thiên

thể, và cùng với biển là các hồ, các sông, lạch, ao, và các suối

trong, tất cả những thứ dùng để mang các con, nuôi các con, giải

khát cho các con và tẩy rửa cho các con; tất cả những thứ phục vụ

các con trong khi phục vụ Đấng Tạo Hóa, mà không tràn bờ để dìm

ngập các con như các con đáng phải chịu.

          Để cho ai mà Người đã làm ra vô số gia đình các động vật,

như loài hoa bay và hát, như các tôi tớ chạy và làm việc cho các con,

nuôi các con, làm vui cho các con, vì các con là các vua của các thụ

tạo?

          Để cho ai mà Người đã tạo nên vô kể các loại cây cối, các hoa

giống như các con bướm, các hạt mầm, và các loài chim bất động:

các trái cây giống như các giây chuyền và các nữ trang bằng ngọc,

những cái thảm ở dưới chân các con, làm gối cho đầu các con nghỉ,

giải trí, lợi ích, niềm vui cho tâm hồn, cho các chi thể, mắt, mũi?

          Để cho ai mà Người đã làm ra các khoáng chất trong lòng đất

sâu, các chất muối ở bên dưới các suối nóng sôi hoặc băng giá,

chất lưu huỳnh, iốt, brome, nếu không phải vì sự thích thú của các

kẻ không phải là Thiên Chúa, mà là con Thiên Chúa, vật thể duy

nhất: loài người?

          Không cần thứ gì cho niềm vui hay nhu cầu của Thiên Chúa,

Người tự đầy đủ cho chính mình Người. Sự chiêm ngưỡng chính

mình Người là sự toàn phúc của Người, lương thực của Người, sự

sống của Người, sự nghỉ ngơi của Người. Tất cả mọi tạo vật không

thể làm gia tăng một nguyên tử của niềm vui vô tận của Người, vẻ

đẹp của Người, đời sống của Người, sức mạnh của Người. Tất cả

những thứ đó, Người làm ra cho tạo vật của Người, cho kẻ mà

Người muốn cho làm vua các vật được tạo dựng: cho con người.

          Để được thấy bao công trình của Thiên Chúa và cám ơn Người

vì uy quyền mà Người đã ban cho các con, điều đó cũng đáng chịu

khổ để sống, và các con phải biết ơn Người bằng đời sống của các

con. Các con phải biết ơn, cho dù các con không được cứu chuộc

vào lúc tận cùng thời gian. Quả vậy, vì được xếp vào hạng đầu tiên,

và các con vẫn luôn luôn được như vậy, mỗi người cách riêng, dù là

không tròn chức vụ, dù kiêu căng, dâm đãng, sát nhân… Thiên

Chúa vẫn chấp nhận cho các con được vui hưởng vẻ đẹp của vũ trụ,

và đối xử với các con như các con là người tốt, như những người con

tốt mà người ta dạy dỗ, và chấp nhận cho hết để làm cho đời sống

nó trở nên êm đềm và lành mạnh hơn. Điều mà các con biết là biết

nhờ ánh sáng của Thiên Chúa. Tất cả những gì các con khám phá

được đều là nhờ sự chỉ dẫn của Thiên Chúa, trong điều tốt. Còn

những hiểu biết khác, khi nó mang dấu hiệu của điều xấu, đều đến

từ kẻ Xấu Tối Cao: Satan.

          Đấng là Trí Tuệ Tối Cao biết tất cả. Người biết từ trước khi con

người hiện hữu rằng: bởi ý muốn tự do của nó, con người sẽ là kẻ

ăn cắp và sát nhân. Nhưng bởi vì Lòng Nhân Từ Đời Đời không có

giới hạn trong lòng tốt của Người, trước khi điều tội xảy ra, Người

đã nghĩ đến phương tiện để hủy diệt nó. Phương tiện đó là: Cha,

Ngôi Lời. Dụng cụ để làm phương tiện, một dụng cụ rất có hiệu

qủa: Maria. Và Đức Trinh Nữ được tạo dựng trong thượng trí của

Thiên Chúa. Hết mọi sự đều được tạo dựng cho Cha và bởi Cha:

Con yêu dấu của Chúa Cha.

      Cha, như một vị Vua, Cha phải có dưới chân vị Vua-Thiên-Chúa

của Cha những chiếc thảm và những báu vật mà không một triều

đình nào có thể có; và những lời ca, những tiếng nói, những tôi tớ

để bao bọc sự hiện hữu của Cha như không bao giờ có một đế

 vương nào có thể có; và những loài hoa, những đá ngọc, tất cả sự

tuyệt diệu, tất cả sự cao cả vĩ đại, tất cả những gì là qúi phái, là

thích thú; tất cả những gì có thể kéo ra từ tư tưởng của một Thiên

Chúa. Nhưng Cha phải là xác thể chứ không phải chỉ là thần trí.

Xác thể để cứu xác thể. Xác thể để siêu hóa thể xác và mang nó

lên trời nhiều thế kỷ trước giờ ấn định. Bởi vì thể xác được Thánh

Linh cư ngụ là một tuyệt tác phẩm của Thiên Chúa, và chính bởi

xác thể này mà Trời được tạo dựng.

          Để là thân xác, Cha cần một người mẹ. Để là Thiên Chúa, Cha

cần một người cha là Thiên Chúa. Đó là tại sao Thiên Chúa đã

dựng nên vị Hiền Thê và nói với Người: “Hãy đến với Ta, ở bên

cạnh Ta. Hãy nhìn tất cả những gì Ta làm cho Con chúng ta. Hãy

nhìn và hãy vui mừng, hỡi Trinh Nữ đời đời, người con đời đời. Hãy

để nụ cười của con đầy tràn Thiên Quốc này, và hãy cho các thiên

thần nốt nhạc dạo đầu, để nó dạy cho Thiên Đàng sự hòa hợp Thiên

Quốc. Ta nhìn con và ta thấy con như con sẽ là, ôi Người Nữ Vô

Nhiễm, bây giờ mới chỉ là một thần trí, thần trí mà trong đó Ta

chiêm ngắm Ta. Ta nhìn con và Ta ban cho biển cả và bầu trời mầu

xanh biếc như cái nhìn của con. Ta cho các hạt lúa thánh mầu tóc

của con; Ta cho bông huệ mầu trắng của con, và cho bông hồng

mầu hồng của con. Cũng giống như đối với làn da mịn màng của

con, những ngọc trai là những chiếc răng nhỏ của con. Ta làm ra

những trái dâu ngọt khi nhìn vào miệng con. Ta đặt vào họng chim

họa mi những nốt của giọng hát con, và Ta cho chim ca những tiếng

than của con. Khi đọc những tư tưởng trong tương lai của con, khi

nghe những nhịp đập của qủa tim con, Ta có được những khuôn

mẫu và những hướng dẫn cho việc tạo dựng. Hãy đến, hỡi Niềm

Vui của Ta! Cho con: Tất cả thế giới làm trò vui cho tới khi con là

ánh sáng nhảy múa trong tư tưởng của Ta. Đây, mọi thế giới cho nụ

cười của con. Cho con: Các tràng hoa tinh tú, các giây chuyền bằng

các thiên thể, mặt trăng ở dưới chân xinh xắn của con. Con hãy làm

cho con một khăn choàng bằng các tinh tú của giải Ngân Hà. Tất cả

cho con: Định tinh và hành tinh. Hãy đến và hãy tận hưởng, hãy

thưởng ngoạn muôn hoa sẽ giải khuây cho con trẻ của con, chúng

sẽ làm gối cho Con của lòng con. Hãy đến và hãy chiêm ngắm việc

tạo dựng ra các bầy thú, bầy chiên, bầy phượng hoàng và bồ câu.

Hãy theo sát gần Ta trong khi Ta làm các chậu cho biển cả và sông

ngòi, trong khi ta dựng lên các rặng núi và bao phủ nó bằng tuyết

và rừng cây, trong khi ta gieo lúa miến, các cây thảo, cây mộc và

các vườn nho, vườn oliu cho con, Sự Bình An của Ta. Và cây nho

cho con, các Cành của Ta sẽ mang các chùm nho Thánh Thể. Hãy

chạy, hãy bay, hãy hoan hỉ, ôi Người Đẹp của Ta. Và vũ trụ đang tự

tạo thành giờ nọ qua giờ kia, hãy sửa soạn cho nó yêu Ta, hỡi

Người Yêu, cho nó trở nên đẹp hơn bởi nụ cười của con, hỡi Mẹ của

Con Ta, Hoàng Hậu của Thiên Đàng Ta, Tình Yêu của Thiên Chúa

con”.

      Và còn nữa, khi nhìn thấy kẻ Sai Lầm và cảm phục Đấng Không

Sai Lầm: “Hãy đến với Ta, con là kẻ xóa bỏ nỗi cay đắng do sự bất

tuân của loài người, xóa bỏ sự gian dâm của loài người với Satan

 và sự vô ơn của loài người. Ta sẽ cùng với con để báo thù Satan”.

Thiên Chúa, người Cha, Đấng Tạo Hóa, đã tạo dựng nên người

nam và người nữ với một định luật tình yêu hoàn bị tới nỗi các con

không bao giờ có thể có cách nào để hiểu được nữa về sự toàn vẹn

này. Và các con sẽ ngây ngất khi nghĩ đến con người sẽ thế nào nếu

nó không chịu lụy những huấn lệnh của Satan!

          Hãy xem xét kỹ các thảo mộc trong các trái và hạt của nó. Nó

có sinh mầm giống và hoa trái do một sự thông dâm, hay do ảnh

hưởng của sự thụ tinh bởi hàng trăm sự phối hợp không? Không, từ

chiếc hoa đực, các hạt phấn bay ra, được hướng dẫn bởi các định

luật về thời tiết và từ trường, nó đến trên bầu nhị của hoa cái, bầu

này mở ra, nhận lấy nó và sản xuất. Sau đó là nó từ chối, nó không

làm ô uế cho mình để ngày hôm sau lại cảm thấy cùng một cảm

giác ấy nữa như các con làm. Nó sản xuất. Nó không nở hoa nữa

cho tới mùa năm sau, và khi nó nở hoa là có mục đích để truyền

giống.

      Hãy nhìn xem các con vật, hết các động vật. Có bao giờ các con

thấy một con đực hay một con cái đến với một con khác vì một sự

ôm ấp không sinh sản, hay một liên hệ không trong sạch không?

Không. Nhìn gần hay xa, loài bay hay bò, nhảy hay chạy, chúng

đều làm tròn cái nghi thức sinh sản, không trốn tránh, ngăn ngừa,

không dừng lại ở sự hưởng thụ, nhưng chúng đi cho tới cái hậu qủa

đứng đắn và thánh thiện của việc lưu truyền nòi giống, mục đích

duy nhất. Con người, các Á-Thiên-Chúa, bởi nguồn gốc Thiên Chúa

của họ do Ân Sủng mà Cha đã ban cho họ hoàn toàn, họ phải nhận

lãnh, với cùng một mục đích duy nhất, động tác đã được đặt định

cho loài vật, trừ khi các con tụt xuống ngang hàng với loài vật.

Nhưng các con đã không hành động như cây cỏ và loài vật. Các

con đã có Satan làm thầy. Các con đã muốn nó là thầy, và các con

vẫn còn muốn như vậy. Và các hành động các con làm thì xứng hợp

với vị thầy mà các con đã muốn. Nhưng nếu các con trung thành

với Thiên Chúa, các con sẽ có niềm vui được có con cái một cách

thánh thiện, không đau đớn, không dấn thân vào những liên lạc tà

dâm, bất xứng, mà chính những loài vật không có linh hồn biết lý

luận và thiêng liêng cũng không biết tới.

          Thiên Chúa đã muốn đối chọi với người đàn ông và người đàn

bà bị hư hỏng bởi Satan, bằng một người đàn ông sinh bởi một

người đàn bà được siêu hóa tuyệt vời bởi Thiên Chúa, tới điểm

sinh con mà không cần biết tới đàn ông. Bông hoa sinh ra một bông

hoa mà không cần đến sự thụ tinh vật chất, một Đàn Bà trở thành

Mẹ chỉ bởi hiệu qủa của một cái hôn của Mặt Trời trên tràng hoa

không bị xâm phạm của Bông Huệ Maria.

       Đó là sự phục thù của Thiên Chúa!

       Ôi Satan! Hãy rít lên sự thù hằn của mi khi Người được sinh ra.

Cô bé này đã thắng mi. Trước khi mi là kẻ phản loạn, kẻ tà vạy, kẻ

đồi bại, thì mi đã là kẻ bại trận, và cô là kẻ thắng mi. Hàng ngàn cơ

binh giàn trận cũng không thể làm được gì chống lại sức mạnh của

cô. Ôi kẻ đồi bại muôn thuở! Các khí giới của loài người đều rơi

 khi đập vào lớp vảy của mi, và không luồng gió nào đủ mạnh đề

làm tan biến được mùi hôi thối của hơi thở mi. Nhưng gót chân của

trẻ nhỏ này, hồng hào như phía bên trong của bông hồng trà, nhẵn

bóng và tế nhị đến nỗi lụa cũng còn có vẻ ghồ ghề khi so sánh với

nó, bé tí tới nỗi có thể đi vào giữa chiếc cúp của một bông tu-líp và

làm cho thứ sa-tanh thảo mộc này thành một đôi giầy. Đó, nó nghiền

nát mi không sợ sệt, và nhốt mi vào trong hang của mi. Đó, chỉ một

tiếng khóc oe oe của cô đã làm cho mi chạy trốn, dù mi không sợ

các đạo binh. Và đây, hơi thở của cô thanh tẩy thế giới cho khỏi sự

tanh hôi của mi. Mi bại trận. Tên cô, cái nhìn của cô, sự trong sạch

của cô là gươm đao, là sét, là đá xuyên thấu mi, cắm mi xuống đất,

nhốt mi vào trong hang hỏa ngục. Ôi! Kẻ bị nguyền rủa, đã lấy mất

của Thiên Chúa niềm vui là cha của hết mọi người được tạo dựng!

Từ nay mi sẽ vô ích để làm hư hỏng những kẻ được tạo dựng

trong tình trạng vô tội, bằng cách đưa họ tới những phối hợp và thọ

thai qua những khúc quanh dâm đãng ngoài ý Thiên Chúa, đấng,

trong tạo vật yêu dấu của Người, ban cho họ các con cái theo những

qui luật mà nếu được tôn trọng, nó sẽ duy trì trên mặt đất một sự

quân bình giữa các phái và các nòi, có thể ngăn cản chiến tranh

giữa các dân tộc, và sự bất hạnh trong các gia đình.

          Trong khi vâng lời, họ sẽ được biết tới tình yêu và họ sẽ được

chiếm hữu một cách đầy đủ và an bình cái điều lan tỏa ra từ Thiên

Chúa, từ siêu nhiên xuống tới tự nhiên, để thân xác cũng được cảm

thấy niềm vui thánh, vì nó đã phối hợp với linh hồn, và được tạo

dựng bởi cùng một đấng đã tạo dựng nên linh hồn.

          Ôi hỡi loài người! Bây giờ tình yêu của các con, những tình yêu

của các con, chúng là gì? Hoặc chúng là dâm ô mang vẻ mặt tình

yêu, hoặc chúng là cái sợ bất khả lành: sợ bị mất tình yêu của

người hôn phối vì lẽ sự dâm đãng của nó và các thứ khác. Các con

không bao giờ chắc chắn chiếm được con tim của người vợ hay

chồng từ lúc mà sự dâm đãng đã xâm chiếm thế giới. Và các con

run sợ, khóc lóc, trở thành điên vì ghen, đôi khi thành sát nhân để

báo thù sự phản bội, và thất vọng; trong những trường hợp khác thì

bị mất nghị lực hay thành cuồng trí.

       Satan! Đó là điều mi đã làm cho con cái Thiên Chúa. Những kẻ

mà mi đã làm hư hỏng, đáng lẽ đã được biết niềm vui sinh con

không đau đớn, và niềm vui được vào đời và chết không sợ sệt.

Nhưng bây giờ mi bị thất bại trong một người Đàn Bà và bởi một

người Đàn Bà. Kể từ giờ này, những kẻ yêu Người sẽ trở lại làm

Con Thiên Chúa, thắng vượt các cám dỗ của mi để duy trì sự trong

trắng trinh khiết của họ. Từ nay, tuy không thể được làm mẹ mà

không đau đớn, nhưng người phụ nữ sẽ được an ủi khích lệ. Từ nay,

Mẹ sẽ là kẻ hướng dẫn cho các vợ chồng, là người mẹ cho kẻ hấp

hối, nhờ vậy, sẽ là êm ái được chết trên lòng kẻ bảo vệ họ khỏi tay

mi, tên bị nguyền rủa, và khỏi sự phán xét của Thiên Chúa.

Maria (Valtorta), tiếng nói nhỏ của Cha, con đã thấy sự sinh ra của

người Con Đức Trinh Nữ và sự sinh ra trên trời của Mẹ Người, vậy

con đã thấy rằng ngoài tội lỗi, còn có sự đau đớn để sinh con và

phải chết không biết trước. Nhưng nếu Đấng Siêu Vô Tội Mẹ Thiên

Chúa được dành cho các ơn phúc toàn vẹn của Trời, thì tất cả những

ai là con cháu của các cha mẹ đầu tiên mà biết giữ mình sạch tội và

trung thành làm con Thiên Chúa, thì họ sẽ được ơn sinh con không

đau đớn như đáng lẽ họ phải chịu, vì họ đã biết phối hợp và mang

thai không dâm đãng, và được chết không lo âu.

       Sự trả thù tuyệt diệu của Thiên Chúa trên sự báo thù của Satan,

là đem sự trọn lành của tạo vật yêu qúi tới một sự siêu trọn lành,

để ít nhất là trong một tạo vật, vô hiệu hóa tất cả kỷ niệm của nhân

loại có thể đã mở lối cho nọc độc của Satan thấm vào. Chính vì vậy

mà không phải là do tiếp theo một sự phối hợp trong trắng của loài

người, nhưng bởi một sự ôm ẵm của Thiên Chúa, đã biến đổi thần

trí trong một sự cực kỳ hoan lạc trong lửa, mà Con Người đã đến

trong thế gian.

       Sự Trinh Khiết của Đức Trinh Nữ!…

       Hãy đến, hãy chiêm ngắm các bề sâu của sự trinh khiết này, mà

sự suy ngắm sẽ làm cho con choáng váng trước vực thẳm! Là gì cái

đồng trinh bó buộc của người đàn bà mà không người đàn ông nào

cưới? Nó còn kém hơn là không. Là gì, sự đồng trinh của các kẻ

muốn đồng trinh để thuộc về Thiên Chúa, nhưng chỉ biết là vậy

trong thân xác, còn tâm hồn thì để cho thấm nhập vào biết bao tư

tưởng ngoại lai, mơn trớn và chấp nhận những mơn trớn của tư

tưởng loài người? Điều này bắt đầu là một ấu trùng của đồng trinh,

nhưng chẳng nhiều nhặt gì. Là gì, sự đồng trinh của một tu sĩ chỉ

sống bằng Thiên Chúa? Rất nhiều. Nhưng nó luôn luôn không phải

là một sự đồng trinh vẹn toàn như của Mẹ Cha.

       Luôn luôn có một sự thông đồng vô ý thức, dù là nơi các người

thánh nhất: sự thông đồng nguyên thủy của thần trí với tội lỗi, tội

mà phép rửa đã giải phóng cho. Nhưng giống như một người đàn bà

xa lìa người chồng bởi cái chết, bà không tìm lại được sự đồng trinh

hoàn toàn. Cũng vậy, phép rửa không trả lại sự đồng trinh này hoàn

toàn như của các cha mẹ đầu tiên trước khi phạm tội. Một cái thẹo

vẫn tồn tại, đau đớn, không quên được, và luôn luôn ở trong hoàn

cảnh có thể bị thương lại, giống như một số bệnh mà có từng kỳ vi

khuẩn hoạt động trở lại.

          Nơi Đức Trinh Nữ không có dấu vết của sự thông đồng với tội

lỗi. Linh hồn Người hiển hiện đẹp đẽ và nguyên vẹn như khi Chúa

Cha đã nghĩ đến, và qui tụ nơi Người hết mọi ân phúc: Đó là Vị

Trinh Nữ, đó là Đấng Duy Nhất, đó là Đấng Trọn Lành, đó là Đấng

Toàn Vẹn. Được nghĩ đến thế nào, được sinh ra thế nào, Người vẫn

vậy, cũng như Người được đội triều thiên và tồn tại muôn đời như

vậy. Đó là Đức Trinh Nữ, đó là Vực Thẳm không thể nào đụng tới

của sự trong sạch, của ân phúc, tự biến mất trong vực thẳm mà

Người đã vọt ra, trong Thiên Chúa, đấng không thể đụng tới, Đấng

Trong Sạch, đấng Ân Sủng tuyệt đối nơi tột bực.

          Đây là sự phục thù của Thiên Chúa Duy Nhất Ba Ngôi. Ngược

lại với tất cả mọi tạo vật bị tục hóa, Người dựng nên một Ngôi Sao

toàn vẹn. Ngược lại với sự tò mò không trong sạch, đấng được dành

riêng này chỉ thỏa mãn với tình yêu của Thiên Chúa thôi. Ngược

 lại với những kiến thức xấu, đây là Đấng Vô Tri tối thượng. Nơi

Người, chẳng những không biết gì về tình yêu hạ cấp, chẳng những

không biết gì về tình yêu mà Thiên Chúa ban cho các đôi loài

người, nhưng còn hơn nữa, nơi Người không hề có cơn sốt độc hại,

di sản của tội lỗi. Nơi Người chỉ có sự khôn ngoan vừa băng gía vừa

cuồng nhiệt của tình yêu Thiên Chúa. Lửa cán bóng láng xác thịt

để làm cho nó thành một tấm gương trên bàn thờ, nơi Thiên Chúa

kết hôn với một Người Trinh Nữ mà không làm hạ giá mình, vì sự

trọn lành của Người bao trùm Hiền Thê, như vậy Người xứng hợp

với vị Hiền Thê chỉ có một độ ở bên dưới Phu Quân, chịu lụy Người

vì là đàn bà, nhưng không tì ố, giống như Người.

 

Download TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI 

Viết bởi Maria Valtorta

Dịch gỉa: Nữ tu Phạm Thị Hùng CMR

Quyển 1-Chuẩn Bị.pdf

http://www.mediafire.com/view/?4bcyq77ze4ai2yo 

Quyển 2_Năm I Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?ea5acw4wttbdudd

Quyển 3-Năm II Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?o6gi6p73sk5lrhd

Quyển 4-Năm II Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?s9akma9mmdzdb26

Quyển 5-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?yrq9nq416v5s4dx

Quyển 6-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?8vl7kzjkskplk1b

Quyển 7-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?apbbvph8ndui8m3

Quyển 8-Chuẩn Bị Cuộc Tử Nạn.pdf

http://www.mediafire.com/view/?kbp3i58kizp5ad1

Quyển 9-Cuộc Tử Nạn.pdf

http://www.mediafire.com/view/?txb433uklyoke1x

Quyển 10-Vinh Quang.pdf

http://www.mediafire.com/view/?oln727ghllo7536

 

by Tháng Mười 8, 2012 Comments are Disabled Cuộc đời Chúa Giê-su (Maria Valtorta)
TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI – QUYỂN 1,7

TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI – QUYỂN 1,7

         https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/09/sinhnhatducme.jpg        

7* VIỆC SINH HẠ ĐỨC TRINH NỮ MARIA

           Tôi thấy Anna ra khỏi vườn rau. Bà tì tay vào một người đàn bà,

chắc là bà con, vì trông giống bà. Bụng bà rất lớn. Bà có vẻ mệt, có

lẽ tại sức nóng, hoàn toàn giống như sức nóng đang đè nặng trên

tôi bây giờ.

          Mặc dầu khu vườn có bóng mát, nhưng không khí thiêu đốt,

nặng nề. Một thứ không khí như cắt được bằng dao, giống như nắm

bột nhào đặc và nóng, vì nó nặng chừng nào dưới bầu trời xanh

biếc một cách tàn nhẫn, mà bụi bặm tung lên làm cho hơi tối. Chắc

là đã từ lâu nắng hạn, bởi vì đất, chỗ nào không được tưới thì thực

tình đã biến thành bụi hầu như trắng, một mầu hơi ngả hồng mờ

đục, trong khi nó có mầu nâu đỏ đậm tại những nơi được tưới, tại

gốc cây hay tại những giải đất bằng, nơi mọc những hàng rau cỏ,

hay chung quanh các gốc cây hồng, cây lài hay những cây hoa to

nhỏ khác, nhất là ở đàng trước và ở bờ một dàn cây đẹp phân chia

vườn cây ăn trái làm hai, dẫn ra tới tận chỗ bắt đầu cánh đồng mà

lúa mạch đã gặt xong. Ngay cỏ ở trong đồng cỏ giới hạn miền đất

sở hữu cũng khô và ít ỏi. Chỉ ngay ở giới hạn vùng đất mới có một

hàng dậu bằng cây sơn tra rừng, đã lốm đốm như sao các trái nhỏ

đỏ như hồng ngọc, là có cỏ xanh và dầy hơn; và tại đó có các con

cừu và một người mục đồng nhỏ tới tìm cỏ và bóng mát.

          Joakim luẩn quẩn bên các luống rau và các cây oliu. Có hai

 người phụ với ông. Mặc dầu tuổi cao, ông lanh lẹ và làm việc cách

hứng thú. Ông đang đào một đường rãnh nhỏ để dẫn nước tới cho

các cây khô nước. Nước chảy theo đường mương, hăng hái băng

qua cỏ và đất khô, làm thành những bọt trông giống như các tinh

thể vàng trong một lát, rồi sau đó chỉ còn lại các cục đất ướt, chung

quanh các cây nho và cây oliu nặng trái.

          Qua dàn cây rợp bóng, dưới đó các con ong vàng kêu vù vù,

tham lam nước cốt của các trái nho vàng, Anna đang từ từ đi về

phía Joakim. Nhận ra bà, ông vội vã tới gặp bà.

          – Bà ra tận đây sao?

          – Trong nhà nóng như cái lò.

          – Bà chịu đựng rất nhiều!

          – Cái khổ duy nhất của tôi trong những ngày mang bầu sau cùng.

Đó là cái khổ của tất cả, người cũng như vật. Joakim, đừng ở qúa

lâu dưới mặt trời nóng.

          – Nước mà người ta chờ đợi lâu rồi, và từ ba ngày nay tưởng là

đã tới, nhưng vẫn chưa có. May mắn cho chúng ta, có được một con

suối lưu lượng dồi dào. Tôi đã xẻ một đường mương để tưới, một sự

nhẹ nhõm cho các cây mà lá bị tàn và phủ đầy bụi. Nhưng cũng chỉ

ngăn cản cho chúng khỏi chết. Nếu có mưa!…

          Joakim, với sự lo lắng của tất cả các nông dân, quan sát bầu trời,

trong khi Anna phe phẩy bằng một cái quạt giống như được làm

bằng lá thốt nốt khô, kết lại bằng những sợi chỉ mầu để giữ cho nó

được cứng.

          Người bà con nói: “Đàng kia, bên ngoài ngọn đại Hermon, có

xuất hiện những đám mây bay lẹ. Gió bắc tới, nó sẽ giải nhiệt, và

có lẽ sẽ cho nước”.

          – Đã như vậy ba ngày rồi. Nó đùn lên rồi nó rơi xuống khi trăng

lên. Lúc này có lẽ cũng giống vậy – Joakim thất vọng.

          Anna nói: “Chúng ta về nhà thôi. Ở đây cũng rất khó thở, vả

nữa, tôi thấy là nên về…” Bà có vẻ xanh xao hơn, vì mặt bà tái mét.

          – Bà đau à?

          – Không, nhưng tôi cảm thấy sự bình an lớn lao như tôi đã cảm

thấy trong Đền Thờ khi tôi được ban ơn, và tôi cũng lại cảm thấy

khi tôi biết rằng tôi sắp làm mẹ. Điều đó giống như cơn xuất thần,

một sự mơ màng êm đềm của thân thể, trong khi tâm hồn hân hoan

và êm ái trong một sự bình an mà không gì thuộc về loài người có

thể so sánh được. Joakim, tôi đã yêu ông. Khi tôi vào trong nhà ông

và tự bảo mình: “Tôi đã kết hôn với một người đàn ông công chính”,

tôi đã có một cảm giác bình an, cũng giống như mỗi lần tình yêu

tiên đoán của ông săn sóc cho Anna của ông. Nhưng sự bình an mà

tôi cảm thấy bây giờ không giống như vậy. Ông coi: tôi tin là một

sự bình an giống như chất dầu ngon ngọt lan ra, đã xâm chiếm tâm

hồn của Jacob, tổ phụ chúng ta, sau khi mơ thấy các thiên thần, và

hơn nữa, giống như sự bình an ngon lành của hai vợ chồng Tôbia

khi Tổng Thần Raphael đã tỏ mình ra cho họ. Nó thấm nhập vào tôi

sâu xa, và tôi càng thưởng thức nó thì nó càng gia tăng. Tựa như tôi

cất mình lên trong không gian tới trời xanh… và tôi không biết tại

sao, từ lúc tôi có sự bình an này trong lòng, một ca vịnh đã nảy sinh

 ra trong tim tôi: ca vịnh của Tôbia. Tôi thấy như nó được viết cho

giờ này… cho niềm vui này… cho mảnh đất của Israel được đón

nhận nó… cho Jêrusalem tội lỗi mà bây giờ được tha thứ… Nhưng…-

đừng cười sự mê sảng của một bà mẹ – nhưng khi tôi bảo mình:

“Hãy tạ ơn Chúa vì sự lành Người đã ban cho. Hãy chúc tụng

Đấng Hằng Hữu để Người tái thiết nhà tạm của Người trong mình”,

tôi nghĩ rằng đấng sẽ tái thiết tại Jêrusalem chiếc lều tạm của

Thiên Chúa thực sẽ là tạo vật sắp sửa sinh ra này… Và tôi còn nghĩ

rằng không còn phải là Thành Thánh, nhưng là thực thể mà tôi sắp

sinh ra, sẽ là số phận đã được tiên tri khi Thánh Vịnh nói: “Con sẽ

chiếu toả một ánh sáng huy hoàng. Mọi dân tộc trên trái đất sẽ

phục lạy trước mặt con, các dân tộc sẽ đến với con để mang lễ vật

cho con, họ sẽ thờ lạy Chúa ở trong con và sẽ giữ đất của con như

đất thánh, vì nơi con, họ sẽ khẩn cầu Thánh Danh. Con sẽ được

hạnh phúc nơi con cái con, vì tất cả sẽ được chúc phúc và họ sẽ tụ

họp gần nơi Chúa. Hạnh phúc cho những kẻ yêu con và được hưởng

sự bình an của con!…” Và người đầu tiên được hưởng chính là tôi,

người mẹ có phúc của Người…

          Anna biến sắc khi bà nói những lời này. Bà rạng rỡ như một

người từ dưới ánh trăng bước tới trước một đống lửa lớn hay ngược

lại. Các giọt nước mắt êm đềm chảy trên má bà, bà không nhận ra,

bà mỉm cười với hạnh phúc của bà. Suốt trong khi nói, bà hướng về

nhà, đi giữa chồng bà và người bà con. Họ lặng lẽ nghe bà và rất

cảm động.

          Họ vội vã, vì các đám mây bị đẩy bởi luồng gió mạnh, đùn lên

chồng chất trên bầu trời. Cánh đồng tối sầm và lay động, báo tin

một cơn bão. Khi họ tới ngưỡng cửa nhà, một làn chớp xanh đầu

tiên xẻ trên bầu trời, và tiếng gầm của sấm nhắc ta nhớ đến tiếng

kêu của một chiếc thùng khổng lồ lăn đi, hòa lẫn với tiếng rào rào

của những hạt mưa đầu tiên trên lá khô.

          Mọi người đều vào nhà và Anna rút lui về phòng, trong khi Joakim

nói chuyện tại ngưỡng cửa với hai người phụ tá của ông về làn

nước đã bao chờ đợi, là phúc lành của Chúa cho đất khô. Nhưng rồi

niềm vui bị thay thế bằng e sợ, vì một cơn bão đáng ngại nổi dậy,

kèm với sấm chớp, và các đám mây chứa đầy nước đá: “Nếu mây

rẽ ra, các trái nho và oliu sẽ nát như trong cối đá. Khốn cho chúng

ta!…”

          Một nỗi lo âu khác xâm chiếm Joakim, vì vợ ông sắp sanh. Người

bà con cho ông cái tin bảo đảm rằng Anna không đau đớn, nhưng

ông vẫn xao xuyến. Người bà con và các bà khác, trong số đó có bà

mẹ của Alphê, ra khỏi phòng của Anna, rồi trở lại với những thau

nước nóng và các khăn sấy trên ngọn lửa đang bập bùng vui tươi và

rực rỡ trong cái lò ở giữa căn nhà bếp lớn. Ở mỗi bà, Joakim đều

hỏi thăm các tin tức, và ông không yên ổn được với lời tuyên bố

của các bà. Ngay cả việc không nghe thấy tiếng kêu la của Anna

cũng làm ông lo. Ông nói: “Tôi là một đàn ông chưa bao giờ tham

dự vào việc sinh đẻ, nhưng tôi nhớ đã nghe nói rằng không đau đớn

là dấu rất xấu”.

          Đêm đến, được đi trước bởi cơn giông mạnh mẽ khác thường.

Thác nước, gió, chớp, tất cả đồng loạt, chỉ ngoại trừ mưa đá đã đến

rơi xuống ở miền khác.

          Một người con trai nhận xét sự cuồng phong này và tuyên bố:

“Đúng là Satan đã ra khỏi hỏa ngục cùng với tất cả các qủi. Hãy

nhìn các đám mây đen! Có mùi lưu huỳnh ở trong không khí! Hãy

nghe các tiếng gầm rít, các tiếng kêu than van và nguyền rủa. Nếu

đúng là nó thì chiều nay nó rất giận dữ”.

          Một người con trai khác trả lời: “Nó đã hụt mất một con mồi lớn,

hay là Thánh Micae đã đánh nó bằng những cú sét của Thiên Chúa,

và sừng với đuôi của nó bị cắt cụt và bị cháy”.

          Một người đàn bà chạy qua và kêu: “Joakim, bà sắp sanh, và tất

cả đều bằng lòng và sung sướng!” Rồi bà biến mất với chiếc vò

trong tay.

          Cơn giông bỗng chốc ngừng sau một tiếng sét mạnh tới nỗi nó

quăng ba người đàn ông bắn vào tường trước căn nhà. Dưới đất ở

trong vườn, chỉ còn lại một lỗ đen bốc khói để ghi dấu. Nhưng một

tiếng khóc oe oe giống như tiếng than của một con chim ca lần đầu

tiên không còn kêu nữa, mà là gù gù, lọt qua cửa căn phòng của

Anna, đồng thời một chiếc cầu vồng vĩ đại xuất hiện, vẽ cái vòng

cung bán nguyệt của nó ngang qua hết bầu trời. Nó ló ra, hay ít

nhất, nó có vẻ như ló ra từ đỉnh ngọn Hermon, ngọn núi được mặt

trời hôn, có mầu như thứ bạch ngọc trắng hồng tinh tế nhất. Nó

vươn lên tới bầu trời rất trong của tháng chín, băng qua không gian

đã được rửa sạch mọi dơ bẩn, bay trên các ngọn đồi của Galilê và

miền đồng bằng xuất hiện ở phía nam giữa hai cây sung, rồi qua

một ngọn núi khác, và dường như đặt chân nó tại đáy chân trời, nơi

một dẫy núi dốc đứng che khuất mắt hoàn toàn.

          – Một quang cảnh chưa hề thấy bao giờ!

          – Nhìn kìa! Nhìn kìa!

          – Hình như nó cuốn quanh hết vùng đất của Israel, và đã… Nhưng

coi kìa! Đó, một ngôi sao! Trong khi mặt trời chưa tắt! Một ngôi

sao tuyệt vời! Nó sáng như một viên kim cương khổng lồ!…

          – Và mặt trăng, đó, mặt trăng tròn! Trong khi còn phải ba ngày

nữa nó mới tròn. Nhưng coi, nó chói lọi chừng nào!

          Các bà liền tới, hớn hở với một bé tí mầu hồng, gói trong tấm

khăn trắng toát.

          Đó là MARIA mẹ tôi! Một Maria bé tí, có thể ngủ trong đôi tay

của đứa trẻ. Một Maria không dài hơn cánh tay, một cái đầu nhỏ

mầu ngà hơi hồng và đôi môi nhỏ thắm đỏ, không còn khóc nữa,

nhưng đã bắt đầu bản năng mút, nhưng đôi môi bé tí tới nỗi người

ta không biết làm sao nó có thể giữ được cái núm vú! Một tí đầu

mũi nhỏ ở giữa hai chiếc má tròn, và khi có một cảm giác gì làm

cho nó mở mắt! Hai mảnh trời! Hai điểm thơ ngây mầu xanh biếc,

nhìn mà không thấy, giữa hai hàng mi rất mịn mầu vàng hầu như

hồng, vì nó rất hoe. Ngay những sợi tóc mịn trên cái đầu tròn cũng

hoe vàng như mầu mật ong trắng.

          Về tai: Hai cái vỏ sò nhỏ mầu hồng, trong suốt, rất toàn vẹn.

Các bàn tay… Hai cái gì bé tí, ngo ngoe trong không khí và đưa lên

 miệng! Chúng nắm lại như hai nụ hồng phủ rêu, đã rẽ các đài hoa

xanh ra và phơi bày chất lụa mầu hồng lạt của nó. Và rõ ràng,

người ta nói chúng là hai báu vật bằng ngà hay ngọc thạch lựu

sáng. Hai bàn tay này có thể làm cách nào để lau từng ấy nước

mắt?

          Và các bàn chân, chúng đâu? Lúc này chúng chỉ là những chân

nhỏ gói trong vải gai. Nhưng đây, bà con ngồi xuống để khám phá.

Ôi! Những bàn chân nhỏ! Chỉ độ bốn phân, gan bàn chân là cái vỏ

sò mầu san hô đỏ, mu chân cũng là cái vỏ sò như tuyết với các

mạch máu xanh. Các ngón là tuyệt tác phẩm của nhà điêu khắc, tí

hon và cũng đội triều thiên bằng các vảy nhỏ ngọc thạch lựu sáng.

Nhưng làm sao người ta tìm được xăng đan khi các bàn chân búp bê

này bắt đầu bước? Các bàn chân nhỏ tới nỗi người ta tự hỏi làm sao

nó có thể đứng được? Và các bàn chân nhỏ này có thể đi con đường

chông gai, và chịu đựng bao đau đớn dưới chân Thánh Gía?

          Nhưng bây giờ điều đó chưa được biết. Người ta mỉm cười khi

nhìn đôi bàn chân nhỏ đẹp ngó ngoáy dẫy dụa, các bắp đùi tí hon

mũm mĩm, hợp với chiếc bụng nhỏ thành một lỗ nhỏ và các nếp

gấp, một cái ức trồi lên từ một chiếc ngực toàn vẹn. Dưới tấm lụa

trắng, người ta thấy những cử động hô hấp. Và cũng như người cha

hạnh phúc, người ta kề miệng vào để hôn, lắng nghe nhịp đập của

qủa tim nhỏ… một qủa tim đẹp nhất mà trái đất có được qua mọi

thế kỷ, một trái tim vô nhiễm duy nhất của loài người.

          Còn cái lưng? Đây, người ta lật sấp bé lại để nhìn vòm cong của

thắt lưng, rồi đôi vai mũm mĩm và cái gáy hồng. Nhưng đây: cái

đầu nhỏ dựng lên trên vòm của sống lưng, người ta nói đây là cái

đầu của con chim nhìn quanh thế giới mới mà nó đến khám phá.

Cô bé kêu lên một tiếng để phản đối việc người ta phô bày cô ra

như vậy trước mắt bao người. Cô: sự trinh khiết, trong trắng; cô mà

người ta không bao giờ thấy mình trần nữa; đấng hoàn toàn đồng

trinh, đấng Thánh, đấng Vô Nhiễm tội. Hãy gói lại, hãy gói lại cái

nụ huệ sẽ không bao giờ nở ra trên trái đất, và sẽ cho bông hoa của

cô còn đẹp hơn chính cô, mà vẫn luôn luôn là chiếc mầm non. Chỉ 

 có ở trên trời, bông huệ này của Thiên Chúa Ba Ngôi mới mở ra

hết các cánh của nó, bởi vì ở trên đó không có bụi của tội lỗi có thể

vô tình làm mất giá trị sự trong trắng này. Bởi vì ở trên đó, người ta

sẽ phải tiếp đón, trước mặt toàn thể triều thần, đấng mà lúc này,

chỉ ít năm nữa, sẽ ẩn náu trong một con tim không tì vết, sẽ ở trong

cô: Cha, Con, Thánh Quân.

          Đây, cô lại được bọc vào trong vải, và trong tay người cha dưới

đất của cô, người mà cô rất giống. Bây giờ thì chưa, bây giờ cô chỉ

là một phác họa của con người, tôi muốn nói là cô giống ông khi cô

thành người lớn. Cô không có gì giống mẹ cô cả. Từ cha cô thì có

mầu da và mầu mắt, và cả mầu tóc, bây giờ thì như trắng, nhưng

chắc chắn là sẽ hoe vàng như đôi chân mày đã chứng tỏ. Giống cha

các nét, nhưng hoàn toàn hơn và thanh tú hơn, bởi vì đây là phụ nữ,

và người phụ nữ này! Của cha là nụ cười và cái nhìn, các cử điệu

và bề cao. Khi nghĩ đến Chúa Giêsu, như tôi nhìn thấy người, tôi

 thấy rằng Anna đã cho cháu ngoại bà khổ người của bà, và cái mầu

da ngà đậm hơn. Maria không có cái vẻ oai phong của Anna – một

cây thốt nốt cao và mềm mại – nhưng là vẻ đáng yêu của cha.

          Các phụ nữ còn nói về cơn giông và sự phi thường của mặt trăng,

của vì sao, của cái cầu vồng khổng lồ trong khi các bà cùng với

Joakim đi về phòng của người mẹ hạnh phúc, và trả cho bà tạo vật

bé nhỏ của bà.

          Anna mỉm cười với tư tưởng của bà. Bà nói: “Đây là Vì Sao, dấu

hiệu của nó ở trên trời. Maria, cầu vồng bình an! Maria, vì sao của

tôi. Maria, vầng trăng sáng! Maria, viên ngọc của chúng tôi!”

          – Bà gọi tên bé là Maria sao?

          – Đúng, Maria: vì sao, viên ngọc, ánh sáng, bình an…

          – Nhưng tên này cũng có nghĩa là cay đắng. Bà không sợ nó đem

bất hạnh đến cho cô bé sao?

          – Thiên Chúa ở với nó. Nó thuộc về Người từ trước khi nó hiện

hữu. Người sẽ dẫn dắt nó trên đường của Người, và mọi cay đắng

sẽ biến thành mật ong Thiên Đường. Bây giờ con ở nhà má con,

còn một ít thời gian nữa trước khi con hoàn toàn thuộc về Thiên

Chúa…

          Thị kiến chấm dứt trên giấc ngủ của Anna đã thành mẹ, và của

Maria con bà.

Download TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI 

Viết bởi Maria Valtorta

Dịch gỉa: Nữ tu Phạm Thị Hùng CMR

Quyển 1-Chuẩn Bị.pdf

http://www.mediafire.com/view/?4bcyq77ze4ai2yo 

Quyển 2_Năm I Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?ea5acw4wttbdudd

Quyển 3-Năm II Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?o6gi6p73sk5lrhd

Quyển 4-Năm II Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?s9akma9mmdzdb26

Quyển 5-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?yrq9nq416v5s4dx

Quyển 6-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?8vl7kzjkskplk1b

Quyển 7-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?apbbvph8ndui8m3

Quyển 8-Chuẩn Bị Cuộc Tử Nạn.pdf

http://www.mediafire.com/view/?kbp3i58kizp5ad1

Quyển 9-Cuộc Tử Nạn.pdf

http://www.mediafire.com/view/?txb433uklyoke1x

Quyển 10-Vinh Quang.pdf

http://www.mediafire.com/view/?oln727ghllo7536

by Tháng Chín 26, 2012 Comments are Disabled Cuộc đời Chúa Giê-su (Maria Valtorta)
TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI – QUYỂN 1, 5-6

TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI – QUYỂN 1, 5-6

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/09/saint-ann.jpg

                         QUYỂN 1, 5 & 6

 

5* ANNA, VỚI MỘT THÁNH VỊNH, LOAN BÁO CHỨC LÀM MẸ CỦA BÀ

          Tôi lại thấy căn nhà của Joakim và Anna. Bên trong không có gì

thay đổi, ngoại trừ có rất nhiều cành hoa cắm trong bình đặt ở đó

đây, tất cả đều đầy hoa. Chắc chắn đây là những cành lấy về khi

tỉa cây trong vườn. Đây là một đám mây các bó hoa mà mầu sắc

thay đổi từ trắng tuyết đến mầu đỏ san hô.

          Công việc của Anna cũng có khác. Trên cái khung cửi nhỏ hơn

cái kia, bà đang dệt một tấm vải đẹp bằng gai và bà hát, hòa nhịp

đạp của chân với điệu hát. Bà hát và bà mỉm cười… với ai? Với

chính bà, với một thị kiến nào đó trong nội tâm bà. Tiếng ca chậm

rãi nhưng vui tươi. Tôi viết ra để hoàn tất, vì bà nhắc đi nhắc lại

nhiều lần, như tìm thấy ở đó sự toàn phúc. Bà hát càng lúc càng

mạnh và vững vàng, tựa như bà tìm được tiết điệu của nó trong tim

bà. Ban đầu, bà thì thầm khe khẽ, rồi vững chắc hơn, bà hát giọng

cao hơn và nhanh hơn. Tôi chép lại đây, bởi vì nó rất êm ái trong sự

đơn sơ của nó:

Vinh danh Chúa toàn năng đã yêu thương con cháu Đavít. Vinh danh Chúa.

Từ trời, ơn huệ của Ngài đã viếng thăm con.

Cây cằn cỗi đã mọc ra cành non, và con sung sướng.

Hy vọng đã vãi hạt giống vào dịp lễ Ánh Sáng.

Không khí thơm tho của tháng Nisan thấy nó nảy mầm.

Vào mùa xuân, thân xác tôi sẽ như cây hạnh đào đầy hoa.

Vào buổi chiều của cuộc đời, nó thấy nó sinh trái.

Trên cành này là một bông hồng, một trái cây dịu ngọt nhất.

Một ngôi sao lấp lánh, môt sự sống thơ ngây trẻ trung.

Đó là niềm vui của gia đình, của vợ chồng.

Ngợi khen Chúa là Thiên Chúa đã thương con.

Ánh sáng của Người đã loan báo cho con: một Vì Sao sẽ đến với ngươi.

Vinh quang! Vinh quang! Trái cây này sẽ thuộc về Ngài: trái

đầu tiên và sau cùng, thánh thiện và trong sạch như ân huệ của Chúa.

Nó sẽ thuộc về Ngài, và bởi nó, niềm vui và bình an sẽ đến trên trái đất.

Hỡi thoi! Hãy bay! Chỉ của mi sẽ dệt vải cho đứa trẻ. Nó sắp sinh ra.

Lời ca của trái tim tôi sẽ bay lên cùng Thiên Chúa.

          Joakim vào khi bà đang hát bài ca của bà lần thứ bốn: “Anna, bà

sung sướng quá nhỉ? Tôi thấy bà như con chim khai mào mùa xuân.

Bài ca này là gì thế? Tôi chưa bao giờ nghe ai hát cả. Nó từ đâu tới

vậy?”

          – Từ qủa tim tôi đó, Joakim – Anna đứng dậy và đến với chồng

bà, bây giờ thì cười tươi, bà có vẻ trẻ hơn và đẹp hơn.

           – Tôi đâu có biết bà là thi sĩ – ông chồng bà nói khi nhìn bà với vẻ

cảm phục. Người ta không thể nghĩ đó là vợ chồng già. Cái nhìn

của họ là sự âu yếm của các cặp trẻ: “Tôi từ cuối vườn về và tôi

nghe thấy bà hát. Từ bao năm rồi, tôi không được nghe cái giọng

chim ca rất gợi cảm của bà. Bà có thể hát lại bài ca này cho tôi

nghe không?”

          – Tôi sẽ hát lại, dù ông không xin. Con cái Israel luôn luôn đặt

trong lời ca những tiếng kêu chân thành nhất của hy vọng, niềm

vui, nỗi đau của họ. Tôi đã phó thác cho bài ca của tôi lo việc nói

cho ông và cho tôi một niềm vui vĩ đại. Đúng, kể cả nói lại cho tôi.

          Đây là một điều lớn lao tới nỗi mặc dầu đã chắc chắn, tôi vẫn thấy

nó như không thực – Và bà bắt đầu lại bài hát, nhưng tới câu: “Trên

cành này là một bông hồng, một trái cây dịu ngọt nhất, đó là một vì

sao…”, giọng của bà run run. Từ giọng nữ trầm, trước hết trở thành

rung rung, rồi bị tắt. Với một tiếng nấc vui mừng, bà nhìn Joakim,

bà giơ tay lên và kêu: “Cưng ơi! Tôi là mẹ!”, và bà lăn vào lòng

ông, giữa hai cánh tay mà ông giang ra cho bà, và ông ôm chặt lấy

người vợ sung sướng của ông.

          Một sự ôm ấp trong trắng nhất và sung sướng nhất mà tôi chưa

hề thấy từ khi tôi ở trên đời. Trong trắng, và nồng nàn trong sự

trong trắng của nó. Rồi một lời trách êm đi qua mái tóc hoa râm

của Anna: “Vậy mà bà không nói cho tôi?”

          – Là vì tôi muốn chắc ăn. Già như tôi… mà biết mình làm mẹ…

thực tình tôi không thể tin… và tôi không muốn gây ra cho ông một

sự thất vọng lớn hơn tất cả. Kể từ cuối tháng mười hai, tôi cảm thấy

một sự đổi mới trong dạ tôi: sự nảy sinh của một cành mới. Nhưng

bây giờ ở trên cành này là một quả. Chắc chắn rồi… Ông thấy

không? Tấm vải này là để cho người sắp tới.

          – Có phải đó là số gai mà bà mua ở Jêrusalem hồi tháng mười

không?

          – Đúng, rồi tôi kéo sợi trong khi chờ đợi niềm hy vọng… Tôi đã

trông cậy: ngày sau cùng, khi tôi đang cầu nguyện trong Đền Thờ,

gần nơi nhà Chúa hết sức có thể được phép đối với một người đàn

bà, trời đã muộn… Ông có nhớ tôi đã nói: “Tí nữa, tí nữa đi”. Tôi

không thể rời bỏ nơi này khi chưa nhận được ân huệ. Rồi trong

bóng tối đã trùm lên nơi Thánh, tôi cảm thấy một sự lôi kéo mạnh

mẽ hết sức của linh hồn tôi để giựt lấy một tiếng “Được” của Thiên

Chúa đang hiện diện ở đó. Tôi đã thấy vọt ra một tia sáng, một tia

sáng tuyệt diệu, sáng và êm như ánh trăng, nhưng nó mang theo sự

chói lọi của tất cả mọi hạt trai và ngọc qúi của trái đất. Tôi thấy

như một trong những ngôi sao qúi của bức màn, những ngôi sao ở

dưới chân các Kêrubim, nó tách ra và mặc lấy sự huy hoàng của

một ánh sáng siêu nhiên… Tôi thấy như từ bên kia bức màn Thánh,

từ chính sự vinh quang, một tia lửa bay nhanh đến với tôi. Và khi

băng qua không khí, nó nói với tôi giống như tiếng nói từ trời: “Điều

con xin sẽ đến cho con”. Chính vì vậy mà tôi hát: “Một vì sao sẽ

đến với ngươi”. Sẽ không bao giờ có người con nào như con chúng

ta. Nó tự biểu lộ như ánh sáng của một vì sao trong Đền Thờ và nó

nói: “Con đây” trong lễ Ánh Sáng. Tôi nghĩ rằng ông cũng đã thấy

 ngay vào lúc ông nhìn tôi như một Anna Elqana mới. Chúng ta sẽ

gọi tên nó là gì, đứa con của chúng ta, mà một cách êm đềm như

tiếng rì rào của dòng suối, tôi cảm thấy nó nói trong lòng tôi bằng

những nhịp đập của con tim bé tí của nó, giống như một con chim

cu mà người ta giữ trong lòng bàn tay.

          – Nếu là con trai, chúng ta sẽ gọi nó là Samuel. Nếu là con gái

thì là Ngôi Sao, cái từ đã chấm dứt bài hát của bà để cho tôi nỗi vui

được biết mình là cha, hình thể mà nó đã dùng để tự bộc lộ trong

bóng tối thánh của Đền Thờ.

          – Ngôi Sao, ngôi sao của chúng ta. Tôi không biết, tôi nghĩ, tôi

nghĩ rằng đây là đứa con gái. Tôi cho rằng những vuốt ve qúa êm

đềm như vầy chỉ có thể đến từ một cô bé rất dịu dàng. Qủa vậy, tôi

không mang nó, tôi không đau đớn. Chính nó mang tôi đi trên nẻo

đường xanh tươi hoa nở, tựa như tôi là em gái của các thiên thần,

và trái đất đã ở rất xa rồi… Tôi thường nghe nói rằng các phụ nữ thụ

thai và cưu mang con thì phải đau đớn. Nhưng tôi, tôi không cảm

thấy đau. Tôi cảm thấy tôi khỏe mạnh, trẻ trung, tươi mát hơn là khi

tôi cho ông sự đồng trinh của tôi vào thời kỳ trẻ trung xa xưa của

tôi. Con gái Thiên Chúa – vì nó là của Thiên Chúa hơn là của chúng

ta, bông hoa nở trên thân cây khô này – Nó không làm đau cho má

nó, nó chỉ mang cho bà bình an và phúc lành: hoa trái của Thiên

Chúa, người Cha thực của nó.

          – Vậy chúng ta sẽ gọi nó là MARIA, vì sao biển của chúng ta,

ngọc trai, hạnh phúc. Đó là tên của nữ vĩ nhân thứ nhất của Israel.

Nhưng nó sẽ không bao giờ xúc phạm đến Chúa. Nó sẽ hát bài thơ

của đời nó cho một mình Người, vì nó hiến thân cho Người: Bánh

Thánh từ trước khi sinh ra.

          – Đó là của lễ của chúng ta dâng Người. Đúng, dù trai hay gái,

sau khi nó là niềm vui cho chúng ta trong ba năm, chúng ta sẽ dâng

con chúng ta cho Chúa. Chúng ta sẽ là bánh thánh cùng với nó vì

vinh quang Thiên Chúa.

          Tôi không còn nghe và không còn thấy gì nữa.

 

6* “ĐẤNG VÔ TÌ VẾT KHÔNG BAO GIỜ

NGỪNG TƯỞNG NHỚ TỚI THIÊN CHÚA”

          Đấng Khôn Ngoan, sau khi đã soi sáng cho các ngài bằng các

giấc mộng ban đêm, chính Người đã đến. “Biểu hiệu về sức mạnh

của Thiên Chúa và về vinh quang của Đấng Toàn Năng”, và trở

thành lời nói với kẻ son sẻ. Đấng mà từ đây, Người thấy thời gian

cứu độ đã rất gần – là Cha, Đấng Kitô, cháu của Anna – đã thi hành

những phép lạ trên những kẻ son sẻ, bệnh hoạn, bị ám, trên các kẻ

đau khổ, trên tất cả mọi khốn nạn của trái đất.

          Nhưng trong niềm vui được có một người mẹ, thì đây, Cha thì

thầm một lời kín ẩn trong bóng tối của ngôi Đền Thờ, nơi cất giữ

mọi hy vọng của Israel, của ngôi Đền Thờ mà từ nay đã tới biên

giới sự hiện hữu của Người, vì Đền Thờ mới, Đền Thờ thực sự,

không phải chỉ chứa đựng hy vọng của một dân, mà là sự xác thực

về Thiên Đàng cho dân chúng của cả trái đất, trải qua sự liên tiếp

của mọi thế kỷ cho đến tận thế, đã đến gần lúc xuất hiện trên trái

 đất. Lời này thi hành phép lạ, làm cho lòng dạ son sẻ được sinh nở.

Lời này đã cho Cha một người Mẹ. Đấng không phải chỉ có sự trọn

lành tự nhiên như thông thường, vì Mẹ sinh ra bởi hai vị thánh;

không phải Mẹ chỉ có một linh hồn tốt như nhiều người khác, một

sự phát triển liên tục của lòng tốt bởi một sự sẵn sàng tuyệt vời của

ý muốn Mẹ, không phải chỉ có một thân xác trinh khiết, nhưng là

người duy nhất trong mọi người, Mẹ có một tâm hồn trinh khiết.

Con đã thấy sự sinh sản ra các linh hồn liên tục bởi Thiên Chúa,

bây giờ con hãy nghĩ tới nó phải đẹp dường nào, linh hồn biệt ái

của Chúa Cha từ trước khi có thời gian, linh hồn là sự ngon lành

mãn nguyện của Ba Ngôi Rất Thánh! Ba Ngôi muốn nồng nàn

trang điểm cho nó bằng các ân huệ của Người, để nó lại là một

tặng phẩm cho chính Người. Ôi! Hỡi Đấng Hoàn Toàn Thánh Thiện

mà Thiên Chúa đã tạo dựng cho chính Người, và sau đó là cho

phần rỗi của loài người! Trước khi mang Vị Cứu Tinh, Người đã là

nguồn gốc của ơn cứu rỗi, là Thiên Đàng sống động, bởi nụ cười

của Người, Người đã bắt đầu thánh hóa trái đất.

          Linh hồn được tạo dựng để làm linh hồn của Mẹ Thiên Chúa!!!

Khi mà, bởi một rung động mạnh mẽ nhất của Tình Yêu Ba Ngôi,

tia lửa sống này vọt ra, các thiên thần đều cảm thấy một niềm vui

đặc biệt, bởi vì Thiên Đàng chưa bao giờ thấy một ánh sáng nào

sống động như vậy. Tựa như một cánh hoa của bông hồng Thiên

Quốc, một cánh hoa phi vật chất và cao qúi tựa như ngọc và lửa, là

hơi thở của Thiên Chúa, xuống để làm cho sống động một xác thể

rất khác với các thân xác khác. Hơi thở này đã xuống cách mạnh

mẽ trong sự cuồng nhiệt nồng cháy của nó tới nỗi nguyên tội không

thể đụng tới, linh hồn băng qua không gian và ẩn náu trong một

lòng dạ được thánh hóa.

          Trái đất đã có được bông hoa của nó mà nó chưa biết. Bông hoa

thực, bông hoa duy nhất mà sự tươi nở sẽ đời đời: Bông huệ, bông

hồng, bông hoa tím và bông lài, hướng nhật qùi và anh thảo hòa

trộn với nhau, và cùng với chúng, hết mọi bông hoa của trái đất tan

hòa thành một bông hoa duy nhất: MARIA, nơi Người tụ họp hết

mọi Nhân Đức và Ân Sủng. Vào tháng tư, đất Palestin hiện ra như

một khu vườn mênh mông, nơi hương thơm và mầu sắc là một tặng

phẩm tuyệt diệu cho con tim loài người. Nhưng bông hồng đẹp nhất

chưa được biết đến. Nó đã nở ra cho Thiên Chúa trong nơi kín ẩn

của lòng mẹ, bởi vì Mẹ Cha đã yêu từ giây phút đầu tiên Người

được thụ thai. Chỉ khi cây nho đã cho máu của nó để làm rượu, khi

nước nho ngọt và mạnh xông lên đầy không khí và lọt vào mũi, Mẹ

mới mỉm cười, trước tiên là với Thiên Chúa, rồi với thế giới, khi nói

trong nụ cười khôn tả này rằng: “Đây rồi! Cây nho đã cho chùm

nho được chỉ định để nghiền nát trong máy ép, để trở nên linh dược

đời đời chữa bệnh cho loài người. Đây, nó đã ở giữa chúng ta”.

Cha đã nói: Maria đã yêu ngay từ giây phút đầu tiên Mẹ được

thụ thai. Ai đã cho tâm hồn ánh sáng và sự hiểu biết? Ân Sủng. Ai

đã làm cho nó biến đi? Tội nguyên tổ và tội trọng.

MARIA, đấng vô tì vết, không bao giờ nguôi nghĩ tới Thiên Chúa,

tới sự lân cận với Người, tới tình yêu Người, tới ánh sáng của Người,

 sự khôn ngoan của Người. Vậy Mẹ đã có thể hiểu và yêu khi mẹ

còn là một xác thể đang thành hình chung quanh một linh hồn thuần

khiết, và tiếp tục yêu.

          Sau này cha sẽ cho con chiêm ngưỡng trong tâm hồn, những vực

thẳm của sự trinh khiết nơi Mẹ Maria. Con sẽ cảm thấy một sự

choáng váng Thiên Quốc, giống như khi Cha cho con cứu xét tính

Vô Tận của chúng ta. Con đã nhìn xem thế nào là sự kiện mang

trong lòng bà một con người được miễn nguyên tội, điều làm cho

nó mất Thiên Chúa, có thể cho mẹ Người, một người chỉ cưu mang

Mẹ một cách tự nhiên như nhân loại, một sự thông minh cao vượt

và làm cho bà thành một tiên tri: sự tiên tri về con gái bà mà bà

tuyên bố là “Con gái của Thiên Chúa”.

          Và con hãy nghĩ đến thế nào là tình trạng của các cha mẹ đầu

tiên vô tội. Nếu họ đã sinh ra những người con vô tội theo ý muốn

của Thiên Chúa… Đó, ôi loài người, kẻ nói rằng nhắm tới “siêu

nhân”, mà với các thói hư của các con, các con hướng về “siêu

qủi”. Có những phương tiện để tiến tới “siêu nhân”: biết trốn tránh

những ảnh hưởng nguy hại của Satan và để cho Thiên Chúa việc tổ

chức đời sống, kiến thức, điều lành, và không ước ao gì hơn ngoài

những thứ Thiên Chúa đã ban cho các con (những điều này chỉ còn

kém vô tận một chút ), để có thể, trong sự cải tiến liên tục hướng về

sự trọn lành, sinh ra những người con là người trong thân xác, là

con cái Đấng Khôn Ngoan trong tâm hồn, tức là chiến thắng, tức là

mạnh mẽ, tức là vô địch khi đối đầu với Satan, kẻ đáng lẽ đã bị

đóng chặt xuống đất từ bao thế kỷ trước giờ nó bị như vậy, và cùng

với nó là tất cả những sự ác nơi nó.

 

Download TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI 

Viết bởi Maria Valtorta

Dịch gỉa: Nữ tu Phạm Thị Hùng CMR

Quyển 1-Chuẩn Bị.pdf

http://www.mediafire.com/view/?4bcyq77ze4ai2yo 

Quyển 2_Năm I Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?ea5acw4wttbdudd

Quyển 3-Năm II Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?o6gi6p73sk5lrhd

Quyển 4-Năm II Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?s9akma9mmdzdb26

Quyển 5-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?yrq9nq416v5s4dx

Quyển 6-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?8vl7kzjkskplk1b

Quyển 7-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?apbbvph8ndui8m3

Quyển 8-Chuẩn Bị Cuộc Tử Nạn.pdf

http://www.mediafire.com/view/?kbp3i58kizp5ad1

Quyển 9-Cuộc Tử Nạn.pdf

http://www.mediafire.com/view/?txb433uklyoke1x

Quyển 10-Vinh Quang.pdf

http://www.mediafire.com/view/?oln727ghllo7536

 

 

by Tháng Chín 19, 2012 1 comment Cuộc đời Chúa Giê-su (Maria Valtorta)