Tâm Linh

TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI – QUYỂN 1,7

TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI – QUYỂN 1,7

         https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/09/sinhnhatducme.jpg        

7* VIỆC SINH HẠ ĐỨC TRINH NỮ MARIA

           Tôi thấy Anna ra khỏi vườn rau. Bà tì tay vào một người đàn bà,

chắc là bà con, vì trông giống bà. Bụng bà rất lớn. Bà có vẻ mệt, có

lẽ tại sức nóng, hoàn toàn giống như sức nóng đang đè nặng trên

tôi bây giờ.

          Mặc dầu khu vườn có bóng mát, nhưng không khí thiêu đốt,

nặng nề. Một thứ không khí như cắt được bằng dao, giống như nắm

bột nhào đặc và nóng, vì nó nặng chừng nào dưới bầu trời xanh

biếc một cách tàn nhẫn, mà bụi bặm tung lên làm cho hơi tối. Chắc

là đã từ lâu nắng hạn, bởi vì đất, chỗ nào không được tưới thì thực

tình đã biến thành bụi hầu như trắng, một mầu hơi ngả hồng mờ

đục, trong khi nó có mầu nâu đỏ đậm tại những nơi được tưới, tại

gốc cây hay tại những giải đất bằng, nơi mọc những hàng rau cỏ,

hay chung quanh các gốc cây hồng, cây lài hay những cây hoa to

nhỏ khác, nhất là ở đàng trước và ở bờ một dàn cây đẹp phân chia

vườn cây ăn trái làm hai, dẫn ra tới tận chỗ bắt đầu cánh đồng mà

lúa mạch đã gặt xong. Ngay cỏ ở trong đồng cỏ giới hạn miền đất

sở hữu cũng khô và ít ỏi. Chỉ ngay ở giới hạn vùng đất mới có một

hàng dậu bằng cây sơn tra rừng, đã lốm đốm như sao các trái nhỏ

đỏ như hồng ngọc, là có cỏ xanh và dầy hơn; và tại đó có các con

cừu và một người mục đồng nhỏ tới tìm cỏ và bóng mát.

          Joakim luẩn quẩn bên các luống rau và các cây oliu. Có hai

 người phụ với ông. Mặc dầu tuổi cao, ông lanh lẹ và làm việc cách

hứng thú. Ông đang đào một đường rãnh nhỏ để dẫn nước tới cho

các cây khô nước. Nước chảy theo đường mương, hăng hái băng

qua cỏ và đất khô, làm thành những bọt trông giống như các tinh

thể vàng trong một lát, rồi sau đó chỉ còn lại các cục đất ướt, chung

quanh các cây nho và cây oliu nặng trái.

          Qua dàn cây rợp bóng, dưới đó các con ong vàng kêu vù vù,

tham lam nước cốt của các trái nho vàng, Anna đang từ từ đi về

phía Joakim. Nhận ra bà, ông vội vã tới gặp bà.

          – Bà ra tận đây sao?

          – Trong nhà nóng như cái lò.

          – Bà chịu đựng rất nhiều!

          – Cái khổ duy nhất của tôi trong những ngày mang bầu sau cùng.

Đó là cái khổ của tất cả, người cũng như vật. Joakim, đừng ở qúa

lâu dưới mặt trời nóng.

          – Nước mà người ta chờ đợi lâu rồi, và từ ba ngày nay tưởng là

đã tới, nhưng vẫn chưa có. May mắn cho chúng ta, có được một con

suối lưu lượng dồi dào. Tôi đã xẻ một đường mương để tưới, một sự

nhẹ nhõm cho các cây mà lá bị tàn và phủ đầy bụi. Nhưng cũng chỉ

ngăn cản cho chúng khỏi chết. Nếu có mưa!…

          Joakim, với sự lo lắng của tất cả các nông dân, quan sát bầu trời,

trong khi Anna phe phẩy bằng một cái quạt giống như được làm

bằng lá thốt nốt khô, kết lại bằng những sợi chỉ mầu để giữ cho nó

được cứng.

          Người bà con nói: “Đàng kia, bên ngoài ngọn đại Hermon, có

xuất hiện những đám mây bay lẹ. Gió bắc tới, nó sẽ giải nhiệt, và

có lẽ sẽ cho nước”.

          – Đã như vậy ba ngày rồi. Nó đùn lên rồi nó rơi xuống khi trăng

lên. Lúc này có lẽ cũng giống vậy – Joakim thất vọng.

          Anna nói: “Chúng ta về nhà thôi. Ở đây cũng rất khó thở, vả

nữa, tôi thấy là nên về…” Bà có vẻ xanh xao hơn, vì mặt bà tái mét.

          – Bà đau à?

          – Không, nhưng tôi cảm thấy sự bình an lớn lao như tôi đã cảm

thấy trong Đền Thờ khi tôi được ban ơn, và tôi cũng lại cảm thấy

khi tôi biết rằng tôi sắp làm mẹ. Điều đó giống như cơn xuất thần,

một sự mơ màng êm đềm của thân thể, trong khi tâm hồn hân hoan

và êm ái trong một sự bình an mà không gì thuộc về loài người có

thể so sánh được. Joakim, tôi đã yêu ông. Khi tôi vào trong nhà ông

và tự bảo mình: “Tôi đã kết hôn với một người đàn ông công chính”,

tôi đã có một cảm giác bình an, cũng giống như mỗi lần tình yêu

tiên đoán của ông săn sóc cho Anna của ông. Nhưng sự bình an mà

tôi cảm thấy bây giờ không giống như vậy. Ông coi: tôi tin là một

sự bình an giống như chất dầu ngon ngọt lan ra, đã xâm chiếm tâm

hồn của Jacob, tổ phụ chúng ta, sau khi mơ thấy các thiên thần, và

hơn nữa, giống như sự bình an ngon lành của hai vợ chồng Tôbia

khi Tổng Thần Raphael đã tỏ mình ra cho họ. Nó thấm nhập vào tôi

sâu xa, và tôi càng thưởng thức nó thì nó càng gia tăng. Tựa như tôi

cất mình lên trong không gian tới trời xanh… và tôi không biết tại

sao, từ lúc tôi có sự bình an này trong lòng, một ca vịnh đã nảy sinh

 ra trong tim tôi: ca vịnh của Tôbia. Tôi thấy như nó được viết cho

giờ này… cho niềm vui này… cho mảnh đất của Israel được đón

nhận nó… cho Jêrusalem tội lỗi mà bây giờ được tha thứ… Nhưng…-

đừng cười sự mê sảng của một bà mẹ – nhưng khi tôi bảo mình:

“Hãy tạ ơn Chúa vì sự lành Người đã ban cho. Hãy chúc tụng

Đấng Hằng Hữu để Người tái thiết nhà tạm của Người trong mình”,

tôi nghĩ rằng đấng sẽ tái thiết tại Jêrusalem chiếc lều tạm của

Thiên Chúa thực sẽ là tạo vật sắp sửa sinh ra này… Và tôi còn nghĩ

rằng không còn phải là Thành Thánh, nhưng là thực thể mà tôi sắp

sinh ra, sẽ là số phận đã được tiên tri khi Thánh Vịnh nói: “Con sẽ

chiếu toả một ánh sáng huy hoàng. Mọi dân tộc trên trái đất sẽ

phục lạy trước mặt con, các dân tộc sẽ đến với con để mang lễ vật

cho con, họ sẽ thờ lạy Chúa ở trong con và sẽ giữ đất của con như

đất thánh, vì nơi con, họ sẽ khẩn cầu Thánh Danh. Con sẽ được

hạnh phúc nơi con cái con, vì tất cả sẽ được chúc phúc và họ sẽ tụ

họp gần nơi Chúa. Hạnh phúc cho những kẻ yêu con và được hưởng

sự bình an của con!…” Và người đầu tiên được hưởng chính là tôi,

người mẹ có phúc của Người…

          Anna biến sắc khi bà nói những lời này. Bà rạng rỡ như một

người từ dưới ánh trăng bước tới trước một đống lửa lớn hay ngược

lại. Các giọt nước mắt êm đềm chảy trên má bà, bà không nhận ra,

bà mỉm cười với hạnh phúc của bà. Suốt trong khi nói, bà hướng về

nhà, đi giữa chồng bà và người bà con. Họ lặng lẽ nghe bà và rất

cảm động.

          Họ vội vã, vì các đám mây bị đẩy bởi luồng gió mạnh, đùn lên

chồng chất trên bầu trời. Cánh đồng tối sầm và lay động, báo tin

một cơn bão. Khi họ tới ngưỡng cửa nhà, một làn chớp xanh đầu

tiên xẻ trên bầu trời, và tiếng gầm của sấm nhắc ta nhớ đến tiếng

kêu của một chiếc thùng khổng lồ lăn đi, hòa lẫn với tiếng rào rào

của những hạt mưa đầu tiên trên lá khô.

          Mọi người đều vào nhà và Anna rút lui về phòng, trong khi Joakim

nói chuyện tại ngưỡng cửa với hai người phụ tá của ông về làn

nước đã bao chờ đợi, là phúc lành của Chúa cho đất khô. Nhưng rồi

niềm vui bị thay thế bằng e sợ, vì một cơn bão đáng ngại nổi dậy,

kèm với sấm chớp, và các đám mây chứa đầy nước đá: “Nếu mây

rẽ ra, các trái nho và oliu sẽ nát như trong cối đá. Khốn cho chúng

ta!…”

          Một nỗi lo âu khác xâm chiếm Joakim, vì vợ ông sắp sanh. Người

bà con cho ông cái tin bảo đảm rằng Anna không đau đớn, nhưng

ông vẫn xao xuyến. Người bà con và các bà khác, trong số đó có bà

mẹ của Alphê, ra khỏi phòng của Anna, rồi trở lại với những thau

nước nóng và các khăn sấy trên ngọn lửa đang bập bùng vui tươi và

rực rỡ trong cái lò ở giữa căn nhà bếp lớn. Ở mỗi bà, Joakim đều

hỏi thăm các tin tức, và ông không yên ổn được với lời tuyên bố

của các bà. Ngay cả việc không nghe thấy tiếng kêu la của Anna

cũng làm ông lo. Ông nói: “Tôi là một đàn ông chưa bao giờ tham

dự vào việc sinh đẻ, nhưng tôi nhớ đã nghe nói rằng không đau đớn

là dấu rất xấu”.

          Đêm đến, được đi trước bởi cơn giông mạnh mẽ khác thường.

Thác nước, gió, chớp, tất cả đồng loạt, chỉ ngoại trừ mưa đá đã đến

rơi xuống ở miền khác.

          Một người con trai nhận xét sự cuồng phong này và tuyên bố:

“Đúng là Satan đã ra khỏi hỏa ngục cùng với tất cả các qủi. Hãy

nhìn các đám mây đen! Có mùi lưu huỳnh ở trong không khí! Hãy

nghe các tiếng gầm rít, các tiếng kêu than van và nguyền rủa. Nếu

đúng là nó thì chiều nay nó rất giận dữ”.

          Một người con trai khác trả lời: “Nó đã hụt mất một con mồi lớn,

hay là Thánh Micae đã đánh nó bằng những cú sét của Thiên Chúa,

và sừng với đuôi của nó bị cắt cụt và bị cháy”.

          Một người đàn bà chạy qua và kêu: “Joakim, bà sắp sanh, và tất

cả đều bằng lòng và sung sướng!” Rồi bà biến mất với chiếc vò

trong tay.

          Cơn giông bỗng chốc ngừng sau một tiếng sét mạnh tới nỗi nó

quăng ba người đàn ông bắn vào tường trước căn nhà. Dưới đất ở

trong vườn, chỉ còn lại một lỗ đen bốc khói để ghi dấu. Nhưng một

tiếng khóc oe oe giống như tiếng than của một con chim ca lần đầu

tiên không còn kêu nữa, mà là gù gù, lọt qua cửa căn phòng của

Anna, đồng thời một chiếc cầu vồng vĩ đại xuất hiện, vẽ cái vòng

cung bán nguyệt của nó ngang qua hết bầu trời. Nó ló ra, hay ít

nhất, nó có vẻ như ló ra từ đỉnh ngọn Hermon, ngọn núi được mặt

trời hôn, có mầu như thứ bạch ngọc trắng hồng tinh tế nhất. Nó

vươn lên tới bầu trời rất trong của tháng chín, băng qua không gian

đã được rửa sạch mọi dơ bẩn, bay trên các ngọn đồi của Galilê và

miền đồng bằng xuất hiện ở phía nam giữa hai cây sung, rồi qua

một ngọn núi khác, và dường như đặt chân nó tại đáy chân trời, nơi

một dẫy núi dốc đứng che khuất mắt hoàn toàn.

          – Một quang cảnh chưa hề thấy bao giờ!

          – Nhìn kìa! Nhìn kìa!

          – Hình như nó cuốn quanh hết vùng đất của Israel, và đã… Nhưng

coi kìa! Đó, một ngôi sao! Trong khi mặt trời chưa tắt! Một ngôi

sao tuyệt vời! Nó sáng như một viên kim cương khổng lồ!…

          – Và mặt trăng, đó, mặt trăng tròn! Trong khi còn phải ba ngày

nữa nó mới tròn. Nhưng coi, nó chói lọi chừng nào!

          Các bà liền tới, hớn hở với một bé tí mầu hồng, gói trong tấm

khăn trắng toát.

          Đó là MARIA mẹ tôi! Một Maria bé tí, có thể ngủ trong đôi tay

của đứa trẻ. Một Maria không dài hơn cánh tay, một cái đầu nhỏ

mầu ngà hơi hồng và đôi môi nhỏ thắm đỏ, không còn khóc nữa,

nhưng đã bắt đầu bản năng mút, nhưng đôi môi bé tí tới nỗi người

ta không biết làm sao nó có thể giữ được cái núm vú! Một tí đầu

mũi nhỏ ở giữa hai chiếc má tròn, và khi có một cảm giác gì làm

cho nó mở mắt! Hai mảnh trời! Hai điểm thơ ngây mầu xanh biếc,

nhìn mà không thấy, giữa hai hàng mi rất mịn mầu vàng hầu như

hồng, vì nó rất hoe. Ngay những sợi tóc mịn trên cái đầu tròn cũng

hoe vàng như mầu mật ong trắng.

          Về tai: Hai cái vỏ sò nhỏ mầu hồng, trong suốt, rất toàn vẹn.

Các bàn tay… Hai cái gì bé tí, ngo ngoe trong không khí và đưa lên

 miệng! Chúng nắm lại như hai nụ hồng phủ rêu, đã rẽ các đài hoa

xanh ra và phơi bày chất lụa mầu hồng lạt của nó. Và rõ ràng,

người ta nói chúng là hai báu vật bằng ngà hay ngọc thạch lựu

sáng. Hai bàn tay này có thể làm cách nào để lau từng ấy nước

mắt?

          Và các bàn chân, chúng đâu? Lúc này chúng chỉ là những chân

nhỏ gói trong vải gai. Nhưng đây, bà con ngồi xuống để khám phá.

Ôi! Những bàn chân nhỏ! Chỉ độ bốn phân, gan bàn chân là cái vỏ

sò mầu san hô đỏ, mu chân cũng là cái vỏ sò như tuyết với các

mạch máu xanh. Các ngón là tuyệt tác phẩm của nhà điêu khắc, tí

hon và cũng đội triều thiên bằng các vảy nhỏ ngọc thạch lựu sáng.

Nhưng làm sao người ta tìm được xăng đan khi các bàn chân búp bê

này bắt đầu bước? Các bàn chân nhỏ tới nỗi người ta tự hỏi làm sao

nó có thể đứng được? Và các bàn chân nhỏ này có thể đi con đường

chông gai, và chịu đựng bao đau đớn dưới chân Thánh Gía?

          Nhưng bây giờ điều đó chưa được biết. Người ta mỉm cười khi

nhìn đôi bàn chân nhỏ đẹp ngó ngoáy dẫy dụa, các bắp đùi tí hon

mũm mĩm, hợp với chiếc bụng nhỏ thành một lỗ nhỏ và các nếp

gấp, một cái ức trồi lên từ một chiếc ngực toàn vẹn. Dưới tấm lụa

trắng, người ta thấy những cử động hô hấp. Và cũng như người cha

hạnh phúc, người ta kề miệng vào để hôn, lắng nghe nhịp đập của

qủa tim nhỏ… một qủa tim đẹp nhất mà trái đất có được qua mọi

thế kỷ, một trái tim vô nhiễm duy nhất của loài người.

          Còn cái lưng? Đây, người ta lật sấp bé lại để nhìn vòm cong của

thắt lưng, rồi đôi vai mũm mĩm và cái gáy hồng. Nhưng đây: cái

đầu nhỏ dựng lên trên vòm của sống lưng, người ta nói đây là cái

đầu của con chim nhìn quanh thế giới mới mà nó đến khám phá.

Cô bé kêu lên một tiếng để phản đối việc người ta phô bày cô ra

như vậy trước mắt bao người. Cô: sự trinh khiết, trong trắng; cô mà

người ta không bao giờ thấy mình trần nữa; đấng hoàn toàn đồng

trinh, đấng Thánh, đấng Vô Nhiễm tội. Hãy gói lại, hãy gói lại cái

nụ huệ sẽ không bao giờ nở ra trên trái đất, và sẽ cho bông hoa của

cô còn đẹp hơn chính cô, mà vẫn luôn luôn là chiếc mầm non. Chỉ 

 có ở trên trời, bông huệ này của Thiên Chúa Ba Ngôi mới mở ra

hết các cánh của nó, bởi vì ở trên đó không có bụi của tội lỗi có thể

vô tình làm mất giá trị sự trong trắng này. Bởi vì ở trên đó, người ta

sẽ phải tiếp đón, trước mặt toàn thể triều thần, đấng mà lúc này,

chỉ ít năm nữa, sẽ ẩn náu trong một con tim không tì vết, sẽ ở trong

cô: Cha, Con, Thánh Quân.

          Đây, cô lại được bọc vào trong vải, và trong tay người cha dưới

đất của cô, người mà cô rất giống. Bây giờ thì chưa, bây giờ cô chỉ

là một phác họa của con người, tôi muốn nói là cô giống ông khi cô

thành người lớn. Cô không có gì giống mẹ cô cả. Từ cha cô thì có

mầu da và mầu mắt, và cả mầu tóc, bây giờ thì như trắng, nhưng

chắc chắn là sẽ hoe vàng như đôi chân mày đã chứng tỏ. Giống cha

các nét, nhưng hoàn toàn hơn và thanh tú hơn, bởi vì đây là phụ nữ,

và người phụ nữ này! Của cha là nụ cười và cái nhìn, các cử điệu

và bề cao. Khi nghĩ đến Chúa Giêsu, như tôi nhìn thấy người, tôi

 thấy rằng Anna đã cho cháu ngoại bà khổ người của bà, và cái mầu

da ngà đậm hơn. Maria không có cái vẻ oai phong của Anna – một

cây thốt nốt cao và mềm mại – nhưng là vẻ đáng yêu của cha.

          Các phụ nữ còn nói về cơn giông và sự phi thường của mặt trăng,

của vì sao, của cái cầu vồng khổng lồ trong khi các bà cùng với

Joakim đi về phòng của người mẹ hạnh phúc, và trả cho bà tạo vật

bé nhỏ của bà.

          Anna mỉm cười với tư tưởng của bà. Bà nói: “Đây là Vì Sao, dấu

hiệu của nó ở trên trời. Maria, cầu vồng bình an! Maria, vì sao của

tôi. Maria, vầng trăng sáng! Maria, viên ngọc của chúng tôi!”

          – Bà gọi tên bé là Maria sao?

          – Đúng, Maria: vì sao, viên ngọc, ánh sáng, bình an…

          – Nhưng tên này cũng có nghĩa là cay đắng. Bà không sợ nó đem

bất hạnh đến cho cô bé sao?

          – Thiên Chúa ở với nó. Nó thuộc về Người từ trước khi nó hiện

hữu. Người sẽ dẫn dắt nó trên đường của Người, và mọi cay đắng

sẽ biến thành mật ong Thiên Đường. Bây giờ con ở nhà má con,

còn một ít thời gian nữa trước khi con hoàn toàn thuộc về Thiên

Chúa…

          Thị kiến chấm dứt trên giấc ngủ của Anna đã thành mẹ, và của

Maria con bà.

Download TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI 

Viết bởi Maria Valtorta

Dịch gỉa: Nữ tu Phạm Thị Hùng CMR

Quyển 1-Chuẩn Bị.pdf

http://www.mediafire.com/view/?4bcyq77ze4ai2yo 

Quyển 2_Năm I Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?ea5acw4wttbdudd

Quyển 3-Năm II Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?o6gi6p73sk5lrhd

Quyển 4-Năm II Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?s9akma9mmdzdb26

Quyển 5-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?yrq9nq416v5s4dx

Quyển 6-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?8vl7kzjkskplk1b

Quyển 7-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?apbbvph8ndui8m3

Quyển 8-Chuẩn Bị Cuộc Tử Nạn.pdf

http://www.mediafire.com/view/?kbp3i58kizp5ad1

Quyển 9-Cuộc Tử Nạn.pdf

http://www.mediafire.com/view/?txb433uklyoke1x

Quyển 10-Vinh Quang.pdf

http://www.mediafire.com/view/?oln727ghllo7536

by Tháng Chín 26, 2012 Comments are Disabled Cuộc đời Chúa Giê-su (Maria Valtorta)
TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI – QUYỂN 1, 5-6

TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI – QUYỂN 1, 5-6

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/09/saint-ann.jpg

                         QUYỂN 1, 5 & 6

 

5* ANNA, VỚI MỘT THÁNH VỊNH, LOAN BÁO CHỨC LÀM MẸ CỦA BÀ

          Tôi lại thấy căn nhà của Joakim và Anna. Bên trong không có gì

thay đổi, ngoại trừ có rất nhiều cành hoa cắm trong bình đặt ở đó

đây, tất cả đều đầy hoa. Chắc chắn đây là những cành lấy về khi

tỉa cây trong vườn. Đây là một đám mây các bó hoa mà mầu sắc

thay đổi từ trắng tuyết đến mầu đỏ san hô.

          Công việc của Anna cũng có khác. Trên cái khung cửi nhỏ hơn

cái kia, bà đang dệt một tấm vải đẹp bằng gai và bà hát, hòa nhịp

đạp của chân với điệu hát. Bà hát và bà mỉm cười… với ai? Với

chính bà, với một thị kiến nào đó trong nội tâm bà. Tiếng ca chậm

rãi nhưng vui tươi. Tôi viết ra để hoàn tất, vì bà nhắc đi nhắc lại

nhiều lần, như tìm thấy ở đó sự toàn phúc. Bà hát càng lúc càng

mạnh và vững vàng, tựa như bà tìm được tiết điệu của nó trong tim

bà. Ban đầu, bà thì thầm khe khẽ, rồi vững chắc hơn, bà hát giọng

cao hơn và nhanh hơn. Tôi chép lại đây, bởi vì nó rất êm ái trong sự

đơn sơ của nó:

Vinh danh Chúa toàn năng đã yêu thương con cháu Đavít. Vinh danh Chúa.

Từ trời, ơn huệ của Ngài đã viếng thăm con.

Cây cằn cỗi đã mọc ra cành non, và con sung sướng.

Hy vọng đã vãi hạt giống vào dịp lễ Ánh Sáng.

Không khí thơm tho của tháng Nisan thấy nó nảy mầm.

Vào mùa xuân, thân xác tôi sẽ như cây hạnh đào đầy hoa.

Vào buổi chiều của cuộc đời, nó thấy nó sinh trái.

Trên cành này là một bông hồng, một trái cây dịu ngọt nhất.

Một ngôi sao lấp lánh, môt sự sống thơ ngây trẻ trung.

Đó là niềm vui của gia đình, của vợ chồng.

Ngợi khen Chúa là Thiên Chúa đã thương con.

Ánh sáng của Người đã loan báo cho con: một Vì Sao sẽ đến với ngươi.

Vinh quang! Vinh quang! Trái cây này sẽ thuộc về Ngài: trái

đầu tiên và sau cùng, thánh thiện và trong sạch như ân huệ của Chúa.

Nó sẽ thuộc về Ngài, và bởi nó, niềm vui và bình an sẽ đến trên trái đất.

Hỡi thoi! Hãy bay! Chỉ của mi sẽ dệt vải cho đứa trẻ. Nó sắp sinh ra.

Lời ca của trái tim tôi sẽ bay lên cùng Thiên Chúa.

          Joakim vào khi bà đang hát bài ca của bà lần thứ bốn: “Anna, bà

sung sướng quá nhỉ? Tôi thấy bà như con chim khai mào mùa xuân.

Bài ca này là gì thế? Tôi chưa bao giờ nghe ai hát cả. Nó từ đâu tới

vậy?”

          – Từ qủa tim tôi đó, Joakim – Anna đứng dậy và đến với chồng

bà, bây giờ thì cười tươi, bà có vẻ trẻ hơn và đẹp hơn.

           – Tôi đâu có biết bà là thi sĩ – ông chồng bà nói khi nhìn bà với vẻ

cảm phục. Người ta không thể nghĩ đó là vợ chồng già. Cái nhìn

của họ là sự âu yếm của các cặp trẻ: “Tôi từ cuối vườn về và tôi

nghe thấy bà hát. Từ bao năm rồi, tôi không được nghe cái giọng

chim ca rất gợi cảm của bà. Bà có thể hát lại bài ca này cho tôi

nghe không?”

          – Tôi sẽ hát lại, dù ông không xin. Con cái Israel luôn luôn đặt

trong lời ca những tiếng kêu chân thành nhất của hy vọng, niềm

vui, nỗi đau của họ. Tôi đã phó thác cho bài ca của tôi lo việc nói

cho ông và cho tôi một niềm vui vĩ đại. Đúng, kể cả nói lại cho tôi.

          Đây là một điều lớn lao tới nỗi mặc dầu đã chắc chắn, tôi vẫn thấy

nó như không thực – Và bà bắt đầu lại bài hát, nhưng tới câu: “Trên

cành này là một bông hồng, một trái cây dịu ngọt nhất, đó là một vì

sao…”, giọng của bà run run. Từ giọng nữ trầm, trước hết trở thành

rung rung, rồi bị tắt. Với một tiếng nấc vui mừng, bà nhìn Joakim,

bà giơ tay lên và kêu: “Cưng ơi! Tôi là mẹ!”, và bà lăn vào lòng

ông, giữa hai cánh tay mà ông giang ra cho bà, và ông ôm chặt lấy

người vợ sung sướng của ông.

          Một sự ôm ấp trong trắng nhất và sung sướng nhất mà tôi chưa

hề thấy từ khi tôi ở trên đời. Trong trắng, và nồng nàn trong sự

trong trắng của nó. Rồi một lời trách êm đi qua mái tóc hoa râm

của Anna: “Vậy mà bà không nói cho tôi?”

          – Là vì tôi muốn chắc ăn. Già như tôi… mà biết mình làm mẹ…

thực tình tôi không thể tin… và tôi không muốn gây ra cho ông một

sự thất vọng lớn hơn tất cả. Kể từ cuối tháng mười hai, tôi cảm thấy

một sự đổi mới trong dạ tôi: sự nảy sinh của một cành mới. Nhưng

bây giờ ở trên cành này là một quả. Chắc chắn rồi… Ông thấy

không? Tấm vải này là để cho người sắp tới.

          – Có phải đó là số gai mà bà mua ở Jêrusalem hồi tháng mười

không?

          – Đúng, rồi tôi kéo sợi trong khi chờ đợi niềm hy vọng… Tôi đã

trông cậy: ngày sau cùng, khi tôi đang cầu nguyện trong Đền Thờ,

gần nơi nhà Chúa hết sức có thể được phép đối với một người đàn

bà, trời đã muộn… Ông có nhớ tôi đã nói: “Tí nữa, tí nữa đi”. Tôi

không thể rời bỏ nơi này khi chưa nhận được ân huệ. Rồi trong

bóng tối đã trùm lên nơi Thánh, tôi cảm thấy một sự lôi kéo mạnh

mẽ hết sức của linh hồn tôi để giựt lấy một tiếng “Được” của Thiên

Chúa đang hiện diện ở đó. Tôi đã thấy vọt ra một tia sáng, một tia

sáng tuyệt diệu, sáng và êm như ánh trăng, nhưng nó mang theo sự

chói lọi của tất cả mọi hạt trai và ngọc qúi của trái đất. Tôi thấy

như một trong những ngôi sao qúi của bức màn, những ngôi sao ở

dưới chân các Kêrubim, nó tách ra và mặc lấy sự huy hoàng của

một ánh sáng siêu nhiên… Tôi thấy như từ bên kia bức màn Thánh,

từ chính sự vinh quang, một tia lửa bay nhanh đến với tôi. Và khi

băng qua không khí, nó nói với tôi giống như tiếng nói từ trời: “Điều

con xin sẽ đến cho con”. Chính vì vậy mà tôi hát: “Một vì sao sẽ

đến với ngươi”. Sẽ không bao giờ có người con nào như con chúng

ta. Nó tự biểu lộ như ánh sáng của một vì sao trong Đền Thờ và nó

nói: “Con đây” trong lễ Ánh Sáng. Tôi nghĩ rằng ông cũng đã thấy

 ngay vào lúc ông nhìn tôi như một Anna Elqana mới. Chúng ta sẽ

gọi tên nó là gì, đứa con của chúng ta, mà một cách êm đềm như

tiếng rì rào của dòng suối, tôi cảm thấy nó nói trong lòng tôi bằng

những nhịp đập của con tim bé tí của nó, giống như một con chim

cu mà người ta giữ trong lòng bàn tay.

          – Nếu là con trai, chúng ta sẽ gọi nó là Samuel. Nếu là con gái

thì là Ngôi Sao, cái từ đã chấm dứt bài hát của bà để cho tôi nỗi vui

được biết mình là cha, hình thể mà nó đã dùng để tự bộc lộ trong

bóng tối thánh của Đền Thờ.

          – Ngôi Sao, ngôi sao của chúng ta. Tôi không biết, tôi nghĩ, tôi

nghĩ rằng đây là đứa con gái. Tôi cho rằng những vuốt ve qúa êm

đềm như vầy chỉ có thể đến từ một cô bé rất dịu dàng. Qủa vậy, tôi

không mang nó, tôi không đau đớn. Chính nó mang tôi đi trên nẻo

đường xanh tươi hoa nở, tựa như tôi là em gái của các thiên thần,

và trái đất đã ở rất xa rồi… Tôi thường nghe nói rằng các phụ nữ thụ

thai và cưu mang con thì phải đau đớn. Nhưng tôi, tôi không cảm

thấy đau. Tôi cảm thấy tôi khỏe mạnh, trẻ trung, tươi mát hơn là khi

tôi cho ông sự đồng trinh của tôi vào thời kỳ trẻ trung xa xưa của

tôi. Con gái Thiên Chúa – vì nó là của Thiên Chúa hơn là của chúng

ta, bông hoa nở trên thân cây khô này – Nó không làm đau cho má

nó, nó chỉ mang cho bà bình an và phúc lành: hoa trái của Thiên

Chúa, người Cha thực của nó.

          – Vậy chúng ta sẽ gọi nó là MARIA, vì sao biển của chúng ta,

ngọc trai, hạnh phúc. Đó là tên của nữ vĩ nhân thứ nhất của Israel.

Nhưng nó sẽ không bao giờ xúc phạm đến Chúa. Nó sẽ hát bài thơ

của đời nó cho một mình Người, vì nó hiến thân cho Người: Bánh

Thánh từ trước khi sinh ra.

          – Đó là của lễ của chúng ta dâng Người. Đúng, dù trai hay gái,

sau khi nó là niềm vui cho chúng ta trong ba năm, chúng ta sẽ dâng

con chúng ta cho Chúa. Chúng ta sẽ là bánh thánh cùng với nó vì

vinh quang Thiên Chúa.

          Tôi không còn nghe và không còn thấy gì nữa.

 

6* “ĐẤNG VÔ TÌ VẾT KHÔNG BAO GIỜ

NGỪNG TƯỞNG NHỚ TỚI THIÊN CHÚA”

          Đấng Khôn Ngoan, sau khi đã soi sáng cho các ngài bằng các

giấc mộng ban đêm, chính Người đã đến. “Biểu hiệu về sức mạnh

của Thiên Chúa và về vinh quang của Đấng Toàn Năng”, và trở

thành lời nói với kẻ son sẻ. Đấng mà từ đây, Người thấy thời gian

cứu độ đã rất gần – là Cha, Đấng Kitô, cháu của Anna – đã thi hành

những phép lạ trên những kẻ son sẻ, bệnh hoạn, bị ám, trên các kẻ

đau khổ, trên tất cả mọi khốn nạn của trái đất.

          Nhưng trong niềm vui được có một người mẹ, thì đây, Cha thì

thầm một lời kín ẩn trong bóng tối của ngôi Đền Thờ, nơi cất giữ

mọi hy vọng của Israel, của ngôi Đền Thờ mà từ nay đã tới biên

giới sự hiện hữu của Người, vì Đền Thờ mới, Đền Thờ thực sự,

không phải chỉ chứa đựng hy vọng của một dân, mà là sự xác thực

về Thiên Đàng cho dân chúng của cả trái đất, trải qua sự liên tiếp

của mọi thế kỷ cho đến tận thế, đã đến gần lúc xuất hiện trên trái

 đất. Lời này thi hành phép lạ, làm cho lòng dạ son sẻ được sinh nở.

Lời này đã cho Cha một người Mẹ. Đấng không phải chỉ có sự trọn

lành tự nhiên như thông thường, vì Mẹ sinh ra bởi hai vị thánh;

không phải Mẹ chỉ có một linh hồn tốt như nhiều người khác, một

sự phát triển liên tục của lòng tốt bởi một sự sẵn sàng tuyệt vời của

ý muốn Mẹ, không phải chỉ có một thân xác trinh khiết, nhưng là

người duy nhất trong mọi người, Mẹ có một tâm hồn trinh khiết.

Con đã thấy sự sinh sản ra các linh hồn liên tục bởi Thiên Chúa,

bây giờ con hãy nghĩ tới nó phải đẹp dường nào, linh hồn biệt ái

của Chúa Cha từ trước khi có thời gian, linh hồn là sự ngon lành

mãn nguyện của Ba Ngôi Rất Thánh! Ba Ngôi muốn nồng nàn

trang điểm cho nó bằng các ân huệ của Người, để nó lại là một

tặng phẩm cho chính Người. Ôi! Hỡi Đấng Hoàn Toàn Thánh Thiện

mà Thiên Chúa đã tạo dựng cho chính Người, và sau đó là cho

phần rỗi của loài người! Trước khi mang Vị Cứu Tinh, Người đã là

nguồn gốc của ơn cứu rỗi, là Thiên Đàng sống động, bởi nụ cười

của Người, Người đã bắt đầu thánh hóa trái đất.

          Linh hồn được tạo dựng để làm linh hồn của Mẹ Thiên Chúa!!!

Khi mà, bởi một rung động mạnh mẽ nhất của Tình Yêu Ba Ngôi,

tia lửa sống này vọt ra, các thiên thần đều cảm thấy một niềm vui

đặc biệt, bởi vì Thiên Đàng chưa bao giờ thấy một ánh sáng nào

sống động như vậy. Tựa như một cánh hoa của bông hồng Thiên

Quốc, một cánh hoa phi vật chất và cao qúi tựa như ngọc và lửa, là

hơi thở của Thiên Chúa, xuống để làm cho sống động một xác thể

rất khác với các thân xác khác. Hơi thở này đã xuống cách mạnh

mẽ trong sự cuồng nhiệt nồng cháy của nó tới nỗi nguyên tội không

thể đụng tới, linh hồn băng qua không gian và ẩn náu trong một

lòng dạ được thánh hóa.

          Trái đất đã có được bông hoa của nó mà nó chưa biết. Bông hoa

thực, bông hoa duy nhất mà sự tươi nở sẽ đời đời: Bông huệ, bông

hồng, bông hoa tím và bông lài, hướng nhật qùi và anh thảo hòa

trộn với nhau, và cùng với chúng, hết mọi bông hoa của trái đất tan

hòa thành một bông hoa duy nhất: MARIA, nơi Người tụ họp hết

mọi Nhân Đức và Ân Sủng. Vào tháng tư, đất Palestin hiện ra như

một khu vườn mênh mông, nơi hương thơm và mầu sắc là một tặng

phẩm tuyệt diệu cho con tim loài người. Nhưng bông hồng đẹp nhất

chưa được biết đến. Nó đã nở ra cho Thiên Chúa trong nơi kín ẩn

của lòng mẹ, bởi vì Mẹ Cha đã yêu từ giây phút đầu tiên Người

được thụ thai. Chỉ khi cây nho đã cho máu của nó để làm rượu, khi

nước nho ngọt và mạnh xông lên đầy không khí và lọt vào mũi, Mẹ

mới mỉm cười, trước tiên là với Thiên Chúa, rồi với thế giới, khi nói

trong nụ cười khôn tả này rằng: “Đây rồi! Cây nho đã cho chùm

nho được chỉ định để nghiền nát trong máy ép, để trở nên linh dược

đời đời chữa bệnh cho loài người. Đây, nó đã ở giữa chúng ta”.

Cha đã nói: Maria đã yêu ngay từ giây phút đầu tiên Mẹ được

thụ thai. Ai đã cho tâm hồn ánh sáng và sự hiểu biết? Ân Sủng. Ai

đã làm cho nó biến đi? Tội nguyên tổ và tội trọng.

MARIA, đấng vô tì vết, không bao giờ nguôi nghĩ tới Thiên Chúa,

tới sự lân cận với Người, tới tình yêu Người, tới ánh sáng của Người,

 sự khôn ngoan của Người. Vậy Mẹ đã có thể hiểu và yêu khi mẹ

còn là một xác thể đang thành hình chung quanh một linh hồn thuần

khiết, và tiếp tục yêu.

          Sau này cha sẽ cho con chiêm ngưỡng trong tâm hồn, những vực

thẳm của sự trinh khiết nơi Mẹ Maria. Con sẽ cảm thấy một sự

choáng váng Thiên Quốc, giống như khi Cha cho con cứu xét tính

Vô Tận của chúng ta. Con đã nhìn xem thế nào là sự kiện mang

trong lòng bà một con người được miễn nguyên tội, điều làm cho

nó mất Thiên Chúa, có thể cho mẹ Người, một người chỉ cưu mang

Mẹ một cách tự nhiên như nhân loại, một sự thông minh cao vượt

và làm cho bà thành một tiên tri: sự tiên tri về con gái bà mà bà

tuyên bố là “Con gái của Thiên Chúa”.

          Và con hãy nghĩ đến thế nào là tình trạng của các cha mẹ đầu

tiên vô tội. Nếu họ đã sinh ra những người con vô tội theo ý muốn

của Thiên Chúa… Đó, ôi loài người, kẻ nói rằng nhắm tới “siêu

nhân”, mà với các thói hư của các con, các con hướng về “siêu

qủi”. Có những phương tiện để tiến tới “siêu nhân”: biết trốn tránh

những ảnh hưởng nguy hại của Satan và để cho Thiên Chúa việc tổ

chức đời sống, kiến thức, điều lành, và không ước ao gì hơn ngoài

những thứ Thiên Chúa đã ban cho các con (những điều này chỉ còn

kém vô tận một chút ), để có thể, trong sự cải tiến liên tục hướng về

sự trọn lành, sinh ra những người con là người trong thân xác, là

con cái Đấng Khôn Ngoan trong tâm hồn, tức là chiến thắng, tức là

mạnh mẽ, tức là vô địch khi đối đầu với Satan, kẻ đáng lẽ đã bị

đóng chặt xuống đất từ bao thế kỷ trước giờ nó bị như vậy, và cùng

với nó là tất cả những sự ác nơi nó.

 

Download TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI 

Viết bởi Maria Valtorta

Dịch gỉa: Nữ tu Phạm Thị Hùng CMR

Quyển 1-Chuẩn Bị.pdf

http://www.mediafire.com/view/?4bcyq77ze4ai2yo 

Quyển 2_Năm I Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?ea5acw4wttbdudd

Quyển 3-Năm II Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?o6gi6p73sk5lrhd

Quyển 4-Năm II Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?s9akma9mmdzdb26

Quyển 5-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?yrq9nq416v5s4dx

Quyển 6-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?8vl7kzjkskplk1b

Quyển 7-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?apbbvph8ndui8m3

Quyển 8-Chuẩn Bị Cuộc Tử Nạn.pdf

http://www.mediafire.com/view/?kbp3i58kizp5ad1

Quyển 9-Cuộc Tử Nạn.pdf

http://www.mediafire.com/view/?txb433uklyoke1x

Quyển 10-Vinh Quang.pdf

http://www.mediafire.com/view/?oln727ghllo7536

 

 

by Tháng Chín 19, 2012 1 comment Cuộc đời Chúa Giê-su (Maria Valtorta)
TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI – QUYỂN 1, 3-4

TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI – QUYỂN 1, 3-4

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/09/TMN%C4%90%C4%90VMCT-Q1.jpg

§3-4

3* ANNA CẦU NGUYỆN Ở ĐỀN THỜ

1. VÀ THIÊN CHÚA NHẬN LỜI BÀ

          Trước khi tiếp tục, con ghi chú một điều:

          Con thấy căn nhà này không phải là căn nhà ở Nazarét mà con đã biết. Ít nhất là căn phòng, nó rất khác. Ngay vườn rau cũng lớn hơn, và hơn nữa, người ta còn nhìn thấy các cánh đồng, không nhiều, nhưng có. Sau này, sau hôn lễ của Maria, nó chỉ còn lại khu vườn, lớn, nhưng không còn gì khác. Và căn phòng này mà con thấy, con chưa bao giờ thấy trong các thị kiến trước. Con không biết có phải vì lý do tài chánh mà cha mẹ Maria phải giảm bớt đi một phần sở hữu của họ, hay là vì Maria, khi ra khỏi Đền Thờ, đã đến ở tại một căn nhà khác, có lẽ là của Giuse. Con không nhớ là trong những thị kiến đã qua hay trong những giáo huấn mà con đã nhận được, con có được sự chỉ dẫn chắc chắn nào cho thấy rằng căn nhà ở Nazarét là căn nhà sinh quán hay không. Đầu óc con rất mệt mỏi. Rồi nhất là vì những điều người ta nói với con làm con quên ngay các lời, mặc dù mệnh lệnh đã ban cho con trong linh hồn vẫn cương quyết và tồn tại trong ánh sáng, nhưng các chi tiết biến đi lập tức. Sau đó một giờ, con phải nhắc lại những điều con đã nghe, nếu không thì ngoại trừ một vài câu quan trọng, con không còn nhớ gì nữa, trong khi các thị kiến vẫn sống động trong tâm hồn con, bởi vì con đã quan sát nó bằng chính mắt mình. Con đã nhận những bài đọc, con phải thu thập các thị kiến vì chúng vẫn tồn tại rất rõ ràng trong tư tưởng của con mà con cố gắng để ghi chép lại từ từ.

          Con đã hy vọng nhận được những lời giải thích về thị kiến ngày hôm qua, nhưng trong thực tế, không có gì cả. Con bắt đầu thấy và viết.

          Ở bên ngoài tường thành Jêrusalem, trên các ngọn đồi, ở giữa các cây oliu, có một đám rất đông. Có thể nói, đó là khu chợ mênh mông. Nhưng không có bàn ghế, không có cửa hàng, không có tiếng rao của các người bán rong, cũng không có lái buôn, không có trò chơi. Có nhiều cái lều bằng len thô, chắc chắn là không thấm nước, căng trên những cây cọc cắm xuống đất, hoặc buộc vào những cọc bằng cành cây xanh như một trang trí tươi mát. Những chỗ khác thì được làm bằng các cành cắm xuống đất, làm thành một hành lang cây xanh. Dưới mỗi hành lang, các người thuộc đủ hạng tuổi và đủ hoàn cảnh, nói nhỏ với nhau trong sự trầm mặc mà chỉ có tiếng kêu của trẻ nít là làm cho khuấy động.

          Chiều đã xuống, và ánh sáng của các ngọn đèn dầu nhỏ chiếu ra đó đây một ánh sáng mờ trên khu cắm trại kỳ lạ. Chung quanh các ngọn đèn sáng, các gia đình dùng bữa, ngồi ngay trên đất. Các bà mẹ với các con nhỏ nhất ẵm trong lòng. Nhiều con nít mệt mỏi, thiếp ngủ khi còn cầm một miếng bánh nhỏ trong các ngón tay hồng, tựa đầu vào ngực mẹ như gà con dưới cánh gà mẹ, và các bà mẹ dùng bữa, như các bà có thể, bằng bàn tay tự do còn lại, trong khi tay kia họ ôm con nhỏ vào lòng.

          Trái lại, nhiều gia đình khác chưa bắt đầu bữa ăn, nói chuyện trong ánh sáng mờ của hoàng hôn trong khi chờ đợi thức ăn được  nấu xong. Các đống lửa nhóm lên ở đó đây, các phụ nữ lo công việc ở chung quanh đám lửa. Một giọng ru chậm rãi, chậm rãi, tôi nói là tiếng than, để ru một đứa trẻ khó ngủ.

          Trên cao, bầu trời đẹp và thanh quang, càng lúc càng trở thành xanh tối. Nó gần giống như một tấm màn khổng lồ bằng nhung mềm mầu xanh đen, trên đó, các thợ làm pháo bông và các nhà trang trí vô hình, rất từ từ, đính vào đó những hạt ngọc sáng, những hạt lẻ loi và những hạt họp thành nhóm, tạo nên những cơ cấu hình học kỳ lạ, trong số đó, nhóm Đại Hùng Tinh và Tiểu Hùng Tinh với hình thể của chiếc xe mà càng xe vẫn bám vào đất sau khi đã cởi bỏ cái ách của con bò. Sao Bắc Đẩu đã nhóm lên hết số lửa của nó. Tôi hiểu rằng đây là tháng mười, vì một giọng nam rồ rồ nói lên: “Một tháng mười thật đẹp, ít khi được thấy như vầy!”

          Đây, Anna từ một lều trại tới, cầm trên tay những món gì mà bà để trên miếng bánh lớn và bằng phẳng, trông giống như một trong các loại bánh tráng của chúng ta và được dùng như cái mâm. Thằng bé Alphê bám lấy váy bà và bi bô cái giọng trẻ nít của nó. Joakim đứng ở cửa một căn lều nhỏ bằng lá, nói chuyện với một người trạc ba mươi tuổi mà Alphê chào từ xa với tiếng kêu cung bắc: “Ba!”

          Khi Joakim thấy Anna tới, ông vội vã thắp đèn.

          Anna đi qua như một bà hoàng giữa các hàng lều. Dáng điệu oai phong nhưng khiêm tốn. Bà không hãnh diện về con người của bà. Bà đỡ dậy một đứa bé của một người ăn mày, một bà ăn mày thực sự, nó bị ngã ngay bên chân Anna, vì nó bước đi vụng về. Khuôn mặt nhỏ của nó lem luốc đầy đất và nó khóc. Bà lau cho nó, an ủi nó và trả cho bà mẹ nó đã chạy tới. Anna nói: “Không sao. Ôi, tôi hài lòng vì nó không bị đau. Một đứa trẻ đẹp. Nó mấy tuổi rồi?”

          – Ba tuổi. Đây là đứa áp út. Và trong ít lâu nữa, tôi lại có một đứa nữa. Tôi có sáu con trai, bây giờ tôi muốn một đứa con gái. Đối với một bà mẹ thì một đứa con gái nhỏ là cái gì rất lớn…

          – Đấng Tối Cao đã an ủi bà rất nhiều – Anna thở dài.

          Và bà kia: “Phải, tôi nghèo, nhưng con cái chúng tôi là niềm vui của chúng tôi. Và bây giờ đứa lớn nhất đã có thể giúp đỡ trong công việc. Và thưa bà (tất cả đều chứng tỏ rằng Anna có một địa vị rất cao hơn người đàn bà này, và bà ta cũng nhận ra) bà được bao nhiêu cháu?”

          – Chả có đứa nào cả!

          – Không có đứa nào sao? Thế đứa này không phải của bà?

          – Không, nó là con một người hàng xóm rất tử tế, nó là sự an ủi của tôi.

          – Các con bà chết? Hay…

          – Tôi không hề có con.

          – Ôi! – người ăn mày nhìn bà cách thương hại.

          Anna chào bà với một cái thở dài và đi vào lều của bà.

          – Joakim, tôi đã làm ông phải chờ. Tôi nói chuyện với một người đàn bà nghèo, mẹ của sáu đứa con trai. Nghĩ coi! Và ít lâu nữa, bà ta lại có thêm một đứa nữa.

          Joakim thở dài.

          Ông bố của thằng bé Alphê gọi nó, nó liền trả lời: “Con ở lại với  bà Anna để giúp đỡ bà”. Mọi người đều cười rộ.

          – Hãy để kệ nó. Nó không làm phiền. Nó chưa phải giữ luật. Ở đây hay ở đó thì nó cũng chỉ ăn như một con chim nhỏ – Anna nói, và bà ngồi, ôm đứa trẻ trong lòng. Bà cho nó một cái bánh tráng với cái gì giống như cá nướng, tôi thấy bà sửa soạn trước khi cho nó, có lẽ bà gỡ xương. Trước hết bà phục vụ cho chồng bà, rồi bà ăn sau.

          Trời đêm càng lúc càng nhiều sao, và ánh sáng càng lúc càng đốt lên nhiều trong trại. Rồi rất từ từ, như không nhận ra, nhiều ánh sáng tắt đi. Đó là các đèn của những người đã ăn sớm nhất và bây giờ họ sắp ngủ. Tiếng động cũng giảm bớt từ từ. Người ta không nghe tiếng khóc trẻ thơ nữa. Chỉ có vài đứa bé chưa được ăn còn cho nghe thấy tiếng nói như chiên con tìm sữa mẹ của chúng. Đêm trường thở hơi của nó trên người và vật, ru ngủ cả đau khổ và kỷ niệm, hy vọng và oán giận. Có lẽ việc đó xảy ra theo đà mà giấc ngủ và cơn mơ mang sự yên tĩnh đến cho họ.

          Anna nói với chồng bà trong khi bà ru Alphê đang sắp ngủ trong tay bà: “Đêm vừa qua tôi mơ rằng năm tới tôi sẽ trở lại Thành Thánh vào hai lễ thay vì một, và một lễ sẽ là dâng con tôi vào Đền thờ… Ôi! Joakim!…”

          – Hãy trông cậy, Anna, hãy trông cậy. Bà không biết điều gì khác nữa sao? Chúa đã không nói cách bí mật với con tim bà sao?

          – Không, không có gì, chỉ có một giấc mơ thôi.

          – Ngày mai sẽ là ngày van nài sau cùng. Tất cả các của lễ đã được dâng. Nhưng ngày mai chúng ta sẽ dâng lại cách trọng thể. Chúng ta sẽ thắng Thiên Chúa bằng tình yêu trung thành của chúng ta. Tôi nghĩ rằng sẽ xảy ra cho bà giống như cho Anna Elqana.

          – Nguyện Chúa thi ân… để tôi mau được nghe một tiếng nói bảo tôi: “Hãy đi bình an. Thiên Chúa Israel đã chấp thuận cho bà ơn mà bà xin Người”.

          – Nếu ơn phúc tới, con bà sẽ nói câu đó cho bà khi nó trở mình lần thứ nhất trong dạ bà: đó sẽ là tiếng nói của trẻ thơ trong trắng, tức là tiếng nói của Thiên Chúa.

          Bây giờ tất cả trại đều yên lặng trong đêm. Anna ẵm thằng Alphê vào lều bên cạnh và đặt nó trên nệm cỏ, nơi các anh nó đã ngủ. Rồi bà về nằm xuống bên cạnh Joakim, và ngọn đèn nhỏ của họ cũng tắt: Đó là vì sao nhỏ sau cùng của trái đất. Chỉ còn lại các vì sao trên bầu trời, đẹp hơn bao giờ hết, để canh chừng cho những người đang ngủ.

4* “JOAKIM ĐÃ KẾT HÔN VỚI SỰ KHÔN NGOAN CỦA THIÊN CHÚA, ĐƯỢC GIỮ KÍN TRONG CON TIM CỦA NGƯỜI ĐÀN BÀ CÔNG CHÍNH”

          Chúa Giêsu nói: Những kẻ công chính luôn luôn khôn ngoan: là bạn của Thiên Chúa, họ sống kề cận với Người, và Người: sự Khôn Ngoan vô tận, Người giáo huấn họ. Ông bà ngoại của Cha là những vị công chính, vì vậy họ có sự khôn ngoan. Chính với sự thật mà họ có thể nói điều sách đã nói, khi ca tụng sự Khôn Ngoan trong cuốn sách mang tên này: “Ta yêu nàng và tìm nàng từ tuổi  thanh niên của ta, và ta đã quyết định lấy nàng làm vợ”.

          Anna dòng Aaron là người đàn bà can đảm mà tổ tiên chúng ta đã nói. Và Joakim dòng dõi vua Đavít, đã không tìm ân lộc và của cải nào ngoài nhân đức. Anna là người nhân đức cao cả. Nơi bà, tất cả các nhân đức họp thành một bó hoa thơm, để làm thành một thực tại duy nhất, một thực tại đẹp hơn tất cả, là nhân đức, một nhân đức thực sự, đáng được xuất hiện trước ngai Thiên Chúa. Như vậy là Joakim đã hai lần kết hôn với sự Khôn Ngoan, trong khi “yêu nó hơn một người đàn bà”: sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa giữ kín trong con tim của người đàn bà công chính. Anna dòng Aaron không tìm sự gì khác ngoài việc kết hợp đời bà với đời của một người đàn ông ngay thẳng, tin tưởng chắc chắn rằng sự ngay thẳng là niềm vui của gia đình. Và để là tượng trưng cho người đàn bà dũng cảm, bà chỉ còn thiếu chiếc triều thiên con cái, vinh quang của người vợ, bằng chứng của hôn nhân mà Salômôn đã nói tới. Trong hạnh phúc trọng đại của bà, chỉ còn thiếu những người con này, hoa trái của một cây mà sự đoàn kết với cây bên cạnh, tiếp theo sau một sự phong phú của các hoa trái mới, nơi hai lòng tốt tan hòa thành một, bởi vì về phần chồng bà thì ông không có điều gì phải thất vọng.

          Anna lúc này là người đàn bà già, vợ của Joakim đã từ bao ngũ niên. Đối với ông, bà luôn luôn là “người vợ thời trai tráng của ông, niềm vui của ông, con nai yêu qúi, con linh dương đẹp đẽ” mà những âu yếm luôn luôn tươi mát như buổi chiều ngày hôn lễ. Sự vuốt ve nâng niu của bà làm ông thích thú một cách êm đềm. Bà đã bảo trì nó tươi mát như một bông hoa ướt sương, và nồng nàn như ngọn lửa mà người ta không ngừng châm thêm chất đốt. Cũng vậy, trong nỗi buồn không con, họ nói với nhau “những lời an ủi trong nỗi lo âu và buồn rầu của họ”. Và trên họ, sự Khôn Ngoan đời đời  vươn dậy: khi đến giờ, sau khi đã giáo huấn họ suốt cuộc đời, Sự Khôn Ngoan soi sáng cho họ bằng một giấc mộng ban đêm, báo trước bài thơ vinh quang sẽ được sinh ra bởi họ là MARIA, hoàn toàn thánh thiện, Mẹ của Cha.

          Dù trong sự khiêm nhường của họ, họ không dừng lại ở giấc mơ này, nhưng con tim họ run lên vì niềm hy vọng vào sự loan báo đầu tiên về lời hứa của Thiên Chúa. Điều đó đã là một chắc chắn trong những lời của Joakim: “Hãy trông cậy, hãy trông cậy… Chúng ta sẽ thắng Thiên Chúa bằng tình yêu trung thành của chúng ta”. Họ mơ một đứa con trai, và họ đã được Mẹ của Thiên Chúa. Các lời của sách Khôn Ngoan có vẻ như được viết cho họ: “Bởi nàng, tôi đã tạo được vinh quang trước mặt dân… Nhờ nàng, tôi đã chiếm được sự bất tử, và tôi sẽ để lại một kỷ niệm đời đời về tôi cho những kẻ sẽ đến sau tôi”. Nhưng để được tất cả những điều đó, họ phải chinh phục vương vị bằng các nhân đức thật, bất biến, mà không một biến cố nào có thể tác động đến: đức Tin, đức Mến, đức Cậy, đức Trong Sạch.

          Sự trong sạch của vợ chồng! Họ đã chiếm hữu được nó, vì không cần phải là đồng trinh mới là trong sạch. Các cặp vợ chồng trong sạch được các thiên thần gìn giữ, họ sẽ có những người con tốt, biết coi các nhân đức của cha mẹ như qui luật của đời sống riêng họ. Nhưng hiện nay họ ở đâu? Thời nay người ta không muốn có con cái, nhưng người ta cũng không muốn sống trong sạch. Vậy Cha nói với các con rằng tình yêu và tâm hồn đã hư hỏng.

Download TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI 

Viết bởi Maria Valtorta

Dịch gỉa: Nữ tu Phạm Thị Hùng CMR

Quyển 1-Chuẩn Bị.pdf

http://www.mediafire.com/view/?4bcyq77ze4ai2yo 

Quyển 2_Năm I Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?ea5acw4wttbdudd

Quyển 3-Năm II Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?o6gi6p73sk5lrhd

Quyển 4-Năm II Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?s9akma9mmdzdb26

Quyển 5-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?yrq9nq416v5s4dx

Quyển 6-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?8vl7kzjkskplk1b

Quyển 7-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?apbbvph8ndui8m3

Quyển 8-Chuẩn Bị Cuộc Tử Nạn.pdf

http://www.mediafire.com/view/?kbp3i58kizp5ad1

Quyển 9-Cuộc Tử Nạn.pdf

http://www.mediafire.com/view/?txb433uklyoke1x

Quyển 10-Vinh Quang.pdf

http://www.mediafire.com/view/?oln727ghllo7536

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/05/cavathanhgia.gif 

by Tháng Chín 17, 2012 Comments are Disabled Cuộc đời Chúa Giê-su (Maria Valtorta)
TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI – Quyển 1, 1-2

TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI – Quyển 1, 1-2

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/09/TMN%C4%90%C4%90VMCT-Q1.jpg

§1-2

CHUẨN BỊ

          “Thiên Chúa đã có Ta từ khởi đầu các công trình của Người”

 (Salômôn- Ngạn Ngữ 8, 22)

 

1* “NGƯỜI TA CÓ THỂ GỌI MARIA LÀ CON THỨ CỦA CHÚA CHA”

          Chúa Giêsu ra lệnh cho tôi: “Hãy lấy một cuốn vở mới và chép trên tờ đầu tiên bài đọc của ngày 16 tháng 8 (1944). Trong cuốn sách này, người ta sẽ nói về Mẹ”. Tôi vâng lời và chép.

          Chúa Giêsu nói: Hôm nay chỉ viết điều này thôi: sự trong trắng có một giá trị lớn lao tới nỗi lòng dạ một thụ tạo có thể chứa đựng đấng không thể chứa được, bởi vì Mẹ có sự trong sạch tuyệt đối, một sự trong sạch lớn lao nhất mà một thụ tạo của Thiên Chúa có thể có.

          Ba Ngôi Rất Thánh đã xuống đó với tất cả sự toàn vẹn của Người, ở đó với cả Ba Ngôi, khép kín thực thể vô biên của Người trong một khoảng không gian bé tí – Người không bị giảm bớt chút nào, vì tình yêu của Đức Trinh Nữ và ý muốn của Thiên Chúa đã làm giãn nở khoảng không gian này ra đến nỗi biến nó thành Trời – và tự bộc lộ ra với các đặc tính của Người.

          Chúa Cha, với tư cách là Tạo Hóa, đã làm công việc của Người vào ngày thứ sáu, để có một “người con gái” thực sự xứng đáng với Ngưới, có sự giông giống với Người cách trọn vẹn nhất. Dấu ấn của Thiên Chúa được in trên Maria rõ ràng đến nỗi chỉ có Người Con Đầu Lòng của Cha là ở trên Người. Người ta có thể gọi Maria là con thứ của Chúa Cha, vì sự trọn lành mà Mẹ đã nhận được và biết bảo trì, vì phẩm giá của Mẹ là Hiền Thê và là Mẹ của Thiên Chúa, là Nữ Vương nước Trời. Mẹ đến thứ hai tiếp sau Con của Cha, và đến thứ hai trong tư tưởng đời đời của Người, bởi vì từ đời đời, Người thỏa lòng nơi Mẹ.

          Chúa Con: cũng là “Người Con cho Mẹ”, đã dạy Mẹ, nhờ mầu nhiệm Ân Sủng, Chân Lý của Người và sự Khôn ngoan của Người, trong khi Người mới chỉ là bào thai đang phát triển trong lòng Mẹ.

          Chúa Thánh Thần: khi xuất hiện giữa loài người bởi một lễ Hiện Xuống trước kỳ hạn, bởi một lễ Hiện Xuống kéo dài: “Tình yêu trong Người yêu”, sự yên ủi cho loài người bởi hoa trái của lòng Mẹ, sự thánh hóa cho loài người bởi việc làm mẹ của Đấng Thánh.

          Để tự bộc lộ ra cho loài người dưới hình thức mới và trọn vẹn, khai mào cho kỷ nguyên cứu độ, Thiên Chúa đã không chọn một tinh tú trên trời hay một lâu đài của một quân vương mạnh thế để làm ngai của Người. Người cũng không muốn cánh của các thiên thần để làm bệ dưới chân Người. Người đã muốn một cung lòng không tì vết.

          Evà cũng đã được tạo dựng không tì vết, nhưng bà đã muốn hư hỏng một cách hồn nhiên. Trong khi Evà sống trong một thế giới trong sạch, thì Maria sống trong một thế giới đồi trụy, mà Mẹ không ưng thuận làm tổn thương sự trong trắng của Mẹ, dù bởi một ý nghĩ nhỏ mọn hướng về tội lỗi. Mẹ biết sự hiện hữu  của tội lỗi, Mẹ đã thấy những diện mạo khác nhau và ghê gớm nhất của nó. Mẹ đã thấy tất cả, cho tới điều khủng khiếp nhất: giết Thiên Chúa. Nhưng Mẹ biết chúng để đền tội cho chúng, và để đời đời là đấng  thương kẻ có tội và cầu nguyện cho sự cứu rỗi của họ.

          Tư tưởng này là một lời giới thiệu cho nhiều thực tế thánh thiện khác mà Cha sẽ thông cho con để củng cố cho con, con và nhiều người khác.

 

2* JOAKIM VÀ ANNA KHẤN VỚI CHÚA

          Tôi thấy một cảnh trong nhà. Trước khung cửi, một người đàn bà khá già. Mái tóc xưa kia đen, bây giờ muối tiêu. Khuôn mặt bà không nhăn, nhưng đã đầy vẻ trang trọng đứng đắn theo với tuổi. Tôi nói bà có thể vào khoảng năm mươi hay năm lăm, không hơn. Tôi thấy bà dệt. Căn phòng được soi sáng hoàn toàn bởi ánh sáng vào qua cửa sổ mở ra phía một vườn rau mênh mông, tôi cho bà là một chủ đất nhỏ, bởi vì khu vườn trải ra, mặt đất dợn sóng, tận cùng tại một sườn dốc xanh ngát. Bà đẹp với các nét đặc biệt Hy Bá. Đôi mắt đen và sâu. Không biết sao nó nhắc tôi nhớ đến mắt ông Tẩy Giả. Cái nhìn của bà qúi phái như đôi mắt bà hoàng, nhưng đầy êm dịu. Tựa như trên ánh nhìn của chim phượng có trải ra một tấm màn mầu xanh lơ: nó êm đềm và đượm nét buồn, tựa như bà nghĩ đến điều gì đã bị mất. Làn da hơi đậm. Miệng hơi rộng và đẹp, bộc lộ một sự nhiệm nhặt nhưng không khe khắt. Mũi dài và nhỏ, hơi quặp ở dưới. Mũi quặp rất hòa hợp với đôi mắt. Bà có vẻ vạm vỡ, nhưng không phì nộn. Theo như người ta có thể đoán hình vóc trong khi bà ngồi, thì bà cao lớn và cân đối.

          Tôi thấy dường như bà dệt một cái màn gió hay một cái thảm. Chiếc thoi nhiều mầu qua lại mau chóng trên canh chỉ mầu nâu đậm. Phần đã dệt rồi cho thấy một sự đan chéo kiểu Hy Lạp của các hoa hồng, trong đó mầu lục, mầu vàng, mầu đỏ và mầu lơ với những óng ánh bằng đồng giao nhau, tạo nên như bức khảm. Người đàn bà mặc y phục mầu đậm đơn giản. Đó là mầu tím đỏ, giống như mầu tím bắt chước nơi các hoa păng-xê.

          Nghe gõ cửa, bà đứng dậy ra mở. Qủa là bà khá cao. Một người đàn bà hỏi: “Anna, chị có muốn đưa vò của chị cho tôi không? Tôi sẽ đổ đầy cho chị”.

          Người đàn bà dắt theo với bà một bé trai chừng năm tuổi. Nó bám ngay lấy váy của người đàn bà vừa được gọi tên là Anna. Bà vừa vuốt ve nó vừa đi vào phòng bên cạnh, từ đó bà mang ra một cái vò đẹp bằng đồng. Bà đưa cho người tới thăm và nói: “Chị luôn  luôn tốt với bà già Anna. Nguyện Chúa thưởng cho chị trong đứa bé này và trong tất cả các đứa con mà chị đã có và sẽ có. Chị thật hạnh phúc”, và Anna trút ra một tiếng thở dài.

          Bà kia nhìn Anna, không biết nói sao sau tiếng thở dài này. Để thoa dịu nỗi đau mà bà đoán được, bà nói: “Tôi để Alphê lại đây với chị, nếu điều đó không làm phiền chị, như vậy tôi sẽ đi lẹ hơn, và tôi đổ đầy cho chị nhiều vò và chum”.

          Alphê rất bằng lòng được ở lại, và ta biết tại sao: Mẹ nó đi khỏi, Anna liền vòng tay quanh cổ nó và dẫn nó ra vườn. Bà ẵm nó, giơ cao nó lên tới tận dàn nho với những trái vàng như hoàng ngọc và nói: “Ăn đi! Ăn đi! Ngon lắm”. Rồi bà bao phủ những cái hôn lên khuôn mặt nhỏ lem luốc đầy nước nho mà đứa trẻ lảy hột cách thèm khát. Rồi bà cười, bà cười và bỗng dưng bà như trẻ lại với hai hàng hạt trai trang điểm dưới đôi môi, và niềm vui soi sáng khuôn mặt, xóa đi dấu vết tháng năm, khi đứa trẻ nói với bà: “Và bây giờ thì bà sẽ cho con cái gì nữa?” Và nó nhìn bà, giương tròn đôi mắt xám xanh đậm mầu.

          Bà cười dỡn, cúi xuống tới đầu gối và nói: “Con sẽ cho bà cái gì nếu bà cho con… Nếu bà cho con… đoán coi cái gì nào?”

          Đứa trẻ vỗ tay, cười và nói: “Những cái hôn, những cái hôn, con sẽ cho bà những cái hôn, Anna đẹp, Anna tốt, Anna má con!…”

          Anna, khi bà nghe nó nói: “Anna má con”, bà liền phát ra tiếng kêu vui mừng. Bà ghì đứa nhỏ vào ngực và nói: “Ôi! Vui! Cưng! Cưng! Cưng!” Ở mỗi cái “Cưng” là một cái hôn trên đôi má hồng. Rồi bà cháu đi tới một cái kệ, bà lấy bánh tráng và mật ong ở một cái dĩa ra: “Bà làm cho con đó, con, vẻ đẹp của bà già Anna tội nghiệp, bà cho con là đứa bé yêu bà! Nhưng hãy nói cho bà biết, con yêu bà bao nhiêu?”

          Và đứa trẻ, khi nghĩ đến một cái gì xúc động nhất, nó nói: “Như Đền Thờ của Chúa!” Anna lại hôn lên đôi mắt long lanh sức sống của nó, đôi môi hồng của nó, và đứa trẻ cà vào bà như con mèo con. Mẹ nó ra vào với những vò đầy, bà cười và không nói gì, bà để bà cháu tự do bộc lộ.

          Một người đàn ông già đi vào vườn, ông ta hơi thấp hơn Anna, đầu phủ một bộ tóc trắng toát. Khuôn mặt trắng đóng khung trong bộ râu vuông, đôi mắt xanh đậm hầu như mầu lam giữa hai hàng mi mầu nâu lạt, hầu như vàng. Ông mặc y phục mầu nâu đậm.

         Anna không nhìn thấy ông vì bà quay lưng ra lối vào. Ông cầm vai bà và nói: “Còn tôi, không có gì hết sao?” Anna quay lại và nói: “Ồ, Joakim, ông xong việc rồi à?”, đồng thời thằng bé Alphê cũng ôm lấy đầu gối ông và nói: “Cho cả ông nữa, cho cả ông nữa”. Và khi ông già cúi xuống để hôn nó, đứa trẻ quàng tay quanh cổ ông, vuốt ve bộ râu của ông và hôn ông.

          Joakim cũng có món quà của ông. Ông với tay trái ra sau lưng và lấy một trái táo bóng như trái cây bằng sứ và nói với đứa trẻ đang giơ tay ra cách thèm khát: “Đợi ông bổ ra thành miếng. Con không thể ăn như vầy, nó lớn hơn con”. Và với con dao ông dắt ở giây lưng, một con dao làm vườn, ông bổ thành lát, rồi thành miếng  nhỏ. Ông làm như mớm cho chim trong tổ, vì ông bổ nó ra rất cẩn thận và đưa từng miếng nhỏ vào cái miệng nhỏ há hốc và không ngừng nghiến ngấu.

          – Nhưng ông nhìn coi Joakim! Ôi đôi mắt! Rõ là hai vũng nhỏ của biển Galilê khi gió chiều rải một màn mây trên bầu trời? – Anna nói khi đặt tay trên vai chồng bà và hơi tì vào ông: một cử chỉ bộc lộ tình yêu sâu xa của người vợ, một tình yêu còn nguyên vẹn sau hôn lễ đã nhiều năm.

          Joakim nhìn bà với tình yêu ghi dấu sự ưng thuận của ông khi nói: “Rất đẹp! Và những lọn tóc quăn này, chẳng phải mầu lúa mì chín sao? Hãy nhìn ở bên trong, đó là hỗn hợp của vàng và đồng”.

          – A! Nếu chúng ta được lấy một đứa con thì tôi muốn nó giống như bé Alphê, với đôi mắt và bộ tóc như vầy…- Anna cúi xuống, gần như qùi, và bà hôn đôi mắt xám xanh với một cái thở dài.

          Joakim cũng thở dài, nhưng ông muốn an ủi bà. Ông đặt bàn tay ông lên mái tóc quăn và trắng của Anna và nói: “Phải hy vọng nữa. Thiên Chúa có thể làm tất cả. Bao lâu người ta còn sống thì phép lạ còn có thể xảy ra, nhất là khi người ta yêu Chúa và yêu nhau”. Joakim nhấn mạnh trên những lời sau cùng này.

          Nhưng Anna nín lặng, nhẫn nhục, bà cúi đầu để che giấu hai giọt nước mắt mà chỉ một mình bé Alphê nhìn thấy. Nó ngạc nhiên một cách đau đớn khi thấy người bạn lớn của nó khóc. Và cũng như đôi khi người ta làm cho nó, nó giơ bàn tay nhỏ của nó lên để lau những nước mắt này.

          – Đừng khóc, Anna. Dù sao chúng ta cũng sung sướng. Ít nhất là tôi, bởi vì tôi có bà.

          – Tôi cũng vậy, tôi được sung sướng nhờ ông. Nhưng tôi không cho ông một đứa con nào… Tôi nghĩ mình đã làm mất lòng Thiên Chúa, nên Người đã làm cho lòng dạ tôi thành son sẻ.

          – Ôi! bà xã tôi! Bà đã làm mất lòng Thiên Chúa điều gì chứ! Bà hoàn toàn thánh thiện. Chúng ta hãy lên Đền Thờ một lần nữa về việc này, không phải chỉ vì lễ Lều mà thôi. Chúng ta hãy cầu nguyện thật lâu… Có lẽ sẽ xảy ra cho bà giống như cho Sara… Cho Anna Elqana. Các bà đã chờ đợi rất lâu, và đã tin là bị từ chối vì lẽ sự son sẻ của các bà. Nhưng trái lại, trên trời, Thiên Chúa đã sửa soạn cho các bà một người con thánh. Hãy mỉm cười đi, hiền thê của tôi! Nỗi buồn của bà làm tôi đau khổ hơn là không có kẻ nối dòng. Chúng ta sẽ mang Alphê đi với chúng ta. Chúng ta sẽ dạy nó cầu nguyện, nó vô tội… Thiên Chúa sẽ nghe lời nó và lời chúng ta, và Người sẽ nhận lời chúng ta.

          – Phải, chúng ta hãy khấn với Chúa: con chúng ta sẽ thuộc về Người, miễn là Người ban nó cho chúng ta. Ôi! được nghe gọi: má ơi!

          Và Alphê, khán giả ngạc nhiên và ngây thơ: “Con, con gọi bà như vậy”.

          – Ưà, niềm vui của bà, bé cưng của bà… Nhưng con đã có một người má, còn bà, bà không có con…

          Thị kiến chấm dứt.

          Con cho rằng thị kiến này là khởi đầu chu kỳ về sinh nhật của Mẹ Maria. Con bị  quyến rũ và con mong mỏi biết bao.

          Trước khi viết con nghe người Má nói với con: “Con gái mẹ, vậy hãy viết về mẹ đi, điều đó sẽ an ủi sự đau đớn của con”. Và trong khi nói như vậy, Người đặt tay trên đầu con với một cái vuốt ve nhẹ. Sau đó thị kiến trên đã tới. Nhưng lúc đầu con chưa được nghe nói tới tên của người đàn bà lớn tuổi, con không thể hiểu được rằng con đang ở trước mặt người mẹ của Má con, và sự việc liên can tới sự sinh ra của Người.

Download TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI 

Viết bởi Maria Valtorta

Dịch gỉa: Nữ tu Phạm Thị Hùng CMR

Quyển 1-Chuẩn Bị.pdf

http://www.mediafire.com/view/?4bcyq77ze4ai2yo 

Quyển 2_Năm I Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?ea5acw4wttbdudd

Quyển 3-Năm II Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?o6gi6p73sk5lrhd

Quyển 4-Năm II Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?s9akma9mmdzdb26

Quyển 5-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?yrq9nq416v5s4dx

Quyển 6-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?8vl7kzjkskplk1b

Quyển 7-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?apbbvph8ndui8m3

Quyển 8-Chuẩn Bị Cuộc Tử Nạn.pdf

http://www.mediafire.com/view/?kbp3i58kizp5ad1

Quyển 9-Cuộc Tử Nạn.pdf

http://www.mediafire.com/view/?txb433uklyoke1x

Quyển 10-Vinh Quang.pdf

http://www.mediafire.com/view/?oln727ghllo7536

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/05/cavathanhgia.gif

by Tháng Chín 9, 2012 1 comment Cuộc đời Chúa Giê-su (Maria Valtorta)
TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI (Maria Valtorta) – Quyển 1, phần mở đầu

TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI (Maria Valtorta) – Quyển 1, phần mở đầu

 https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/09/TMN%C4%90%C4%90VMCT-Q1.jpg

Phần Mở Đầu

          Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời đã ở nơi Thiên chúa, và Ngôi lời là Thiên Chúa. Từ nguyên thủy, Người đã ở với Thiên Chúa. Tất cả đều được tạo dựng bởi Người, và không có Người thì không gì được tạo dựng. Điều đã được tạo dựng trong Người là Sự Sống. Và Sự Sống là Ánh Sáng của loài người, và Ánh Sáng đã soi trong bóng tối, nhưng bóng tối không thấu hiểu Ánh Sáng.

          Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan.Ông đến để tỏ bày, để làm chứng cho Ánh Sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là Ánh Sáng, nhưng ông đã làm chứng cho Ánh Sáng.

          Ngôi Lời là Ánh Sáng thực soi cho mọi người. Người đã đến trong thế giới, và thế giới được tạo dựng bởi Người, nhưng thế giới không nhận biết Người. Người đã đến nhà Người, nhưng thân nhân của Người không tiếp đón Người. Nhưng với những ai đón nhận Người, những ai tin vào danh Người, thì Người ban cho quyền trở nên Con Thiên Chúa. Người đã được sinh ra không phải bởi máu huyết, cũng không phải bởi ý muốn của xác thịt hay ý muốn của loài người, nhưng bởi Thiên Chúa.

          Và Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta, và chúng ta đã nhìn ngắm vinh quang của Người, vinh quang mà Người đã nhận được từ Cha Người như người Con Duy Nhất đầy Ân Sủng và Chân Lý.

          Gioan đã làm chứng cho Người và tuyên bố: “Chínhvề Người mà tôi đã nói: Đấng đến sau tôi, đây, Người vượt qua trước tôi, vì Người có trước tôi”. Phải, từ sự sung mãn của Người, chúng ta đã nhận được hết ơn nọ tới ơn kia. Vì Lề Luật thì được ban bố bởi Môise, còn Ân Sủng và Chân Lý thì từ Đức Giêsu Kitô mà tới. Không hề có ai đã thấy Thiên Chúa. Người Con Duy Nhất trở về cung lòng Cha đã cho ta biết Người.

(Khai mào Tin Mừng theo thánh Gioan)

 Maria Valtorta

TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI

Chuẩn bị

Quyển thứ nhất

Năm thứ nhất đời sống công khai

Quyển thứ hai

Năm thứ hai đời sống công khai

Quyển thứ ba và bốn

Năm thứ ba đời sống công khai

Quyển thứ năm, sáu và bảy

Chuẩn bị cuộc tử nạn

Quyển thứ tám

Cuộc tử nạn

Quyển thứ chín

Vinh quang

 Quyển thứ mười

 

Maria Valtorta

Tin Mừng

như đã được vén mở cho tôi

 Dịch từ bản tiếng Pháp

“L’Evangile tel qu’il m’a été révélé”

 Quyển thứ nhất

Chuẩn bị

          La presente pubblicazione dell’opera di Maria Valtorta: “L’Evangelo come mi è stato rivelato”, tradotta in lingua vietnamita, è stata autorizzata dal Centro Editoriale Valtortiano (Viale Piscicelli 91 – 03036 Isola del Liri (FR) Italia – www.mariavaltorta.com) che è titolare di tutti i diritti sulle opere di Maria Valtorta.

          Tác phẩm này của Maria Valtorta: “L’Evangile tel qu’il m’a été révélé”, được phiên dịch và xuất bản bằng tiếng Việt với sự cho phép của Trung Tâm Xuất Bản Valtorta (Viale Piscicelli 91, 03036 Isola del Liri (FR) Italia, www.mariavaltorta.com), cơ quan giữ bản quyền về mọi tác phẩm của Maria Valtorta.

 

TỰA

          Maria Valtorta sinh tại Caserte (nước Ý) ngày 14-3-1897. Maria là con gái duy nhất của một hạ sĩ quan kỵ binh: Giuse Valtorta, sinh tại Mantoue năm 1862, và một cô giáo Pháp văn: Isis Fioravanzi, sinh tại Crémone năm 1861.

          Khi Maria vừa được mười tám tháng thì cha mẹ phải tới cư ngụ ở miền bắc nước Ý cùng với các con, trước tiên là ở Faenza, rồi sau vài năm thì tới Milan, nơi Maria học trường mẫu giáo Ursuline. Chính tại đây, Maria có dấu hiệu đầu tiên về ơn gọi: muốn nên giống Chúa Kitô trong sự đau khổ tự nguyện chấp nhận vì tình yêu.

          Lúc bảy tuổi, vẫn ở Milan, Maria tới trường sơ cấp thuộc học viện của các bà dòng Thánh Marcelle. Ở đó, vào năm 1905, Maria nhận bí tích Thêm Sức bởi tay Đức Thánh Hồng-Y André Ferrari. Maria tiếp tục học tại trường công lập Voghera, nơi gia đình cư ngụ vào năm 1907. Maria rước lễ lần đầu tại Casteggio vào năm 1908.

          Do sự ép buộc của mẹ, một người đàn bà rất độc đoán, năm 1909, Maria phải vào trường trung học Bianconi, ở Monza, nơi cô nổi bật về sự thông minh sắc bén và tính tình cương quyết. Maria rất có khiếu về văn chương nhưng rất dở về toán. Chính nhờ sự cố gắng liên tục mà cô đạt được văn bằng về kỹ thuật, một môn học bị mẹ áp đặt. Tuy vậy Maria bằng lòng với việc học. Nhưng rồi sau bốn năm, người mẹ lại muốn cô ra khỏi trường. Lúc đó Maria cầu nguyện tha thiết, và Thiên Chúa lại một lần nữa, soi sáng cho Maria về tương lai.

          Trong khi chờ đợi thì cha Maria về hưu vì lý do sức khỏe, và gia đình nhỏ di chuyển về sống ở Florence, nơi Maria đính hôn với một người thanh niên dũng cảm, nhưng rồi Maria phải bỏ vì tính tình độc đoán của mẹ. Sau giai đoạn khủng hoảng trầm trọng, vào năm 1916, Maria lại nhận được nơi Chúa một dấu hiệu mặc khải khác.

          Năm 1917, Maria gia nhập hàng ngũ các y tá “người Samari tốt lành”, và phục vụ trong mười tám tháng, săn sóc các thương binh tại bệnh viện ở Florence.

          Ngày 17-3-1920, trong khi Maria đang đi bộ ngoài phố với mẹ, cô bị một người theo phái cực đoan dùng một thanh sắt đánh vào lưng,việc này đã để lại trên Maria những dấu hiệu đầu tiên của tật nguyền tương lai.

          Sau ba tháng nằm trên giường, vào tháng mười năm đó, Maria trở về nhà cha mẹ ở Reggio de Calabre, sống khoảng hai năm tại nhà ông bà ngoại Belfanti, sở hữu chủ của một khách sạn. Thời gian lâu dài sống trong thành phố đẹp bên bờ biển ở miền nam nước Ý này đã làm dồi dào và mạnh mẽ các kinh nghiệm của trí khôn, nhưng Maria lại bị đóng dấu bởi ác cảm của mẹ, người đã phản đối những lời xin cưới hỏi mới. Vào năm 1920, Maria lại trở về Florence và ở đó hai năm giữa những kỷ niệm đau thương.

          Năm 1924 là việc di chuyển vĩnh viễn về Viareggio, nơi ghi dấu khởi đầu một cuộc sống mới, hoàn toàn hướng về sự liên tục lên với Thiên Chúa. Maria kín đáo quan sát (vì lẽ mẹ cô không dung thứ ) những việc thực hành của các nữ tu, và như vậy, Maria thành công trong việc tham gia các hoạt động Công Giáo. Luôn luôn bị thúc đẩy bởi sự ước ao hiến mình, năm 1925, Maria dâng mình cho Tình Yêu Thương Xót, và năm 1931, sau khi tuyên thệ lời khấn, với một lương tâm cương quyết hơn, Maria dâng mình cho sự Công Bằng của Thiên Chúa.

          Đau khổ vì sự đau đớn gia tăng, Maria không bỏ giường nữa kể từ 01-4-1934. Đây, từ lúc này trở đi, Maria là dụng cụ ngoan ngoãn trong bàn tay Thiên Chúa. Năm sau đó, có bà Matta Diciotti đến ở nhà Maria và sẽ là người bạn trung thành và không lìa bỏ Maria nữa trong suốt đời cô. Chính vào lúc đó, Maria có sự đau đớn rất lớn lao là cái chết của cha, người cô yêu qúi và coi như người đàn ông tốt nhất trong các người đàn ông.

          Năm 1942, một linh mục đạo đức tới thăm Maria: cha Romuald M. Migliorini, trước là giáo sĩ truyền giáo thuộc hội Tôi Tớ Đức Mẹ. Người làm cha linh hướng cho cô trong bốn năm. Năm 1943, mẹ chết, Maria Valtorta bắt đầu hoạt động viết văn.

          Từ cuốn tiểu sử do cha Migliorini muốn có, và được viết theo khả năng của cô, Maria chuyển qua các bài được nghe đọc và các thị kiến mà Maria tuyên bố rằng được mặc khải. Vẫn không rời giường và mặc dầu rất đau đớn, Maria vẫn viết bằng chính tay mình và viết một mạch, vào bất cứ giờ nào, kể cả ban đêm, và không hề thấy phiền phức vì những dịp phải gián đoạn, luôn luôn giữ bộ dạng tự nhiên. Cuốn sách duy nhất Maria  có thể tham khảo là Thánh Kinh và sách bổn giáo lý của Đức Pio X.

          Từ năm 1943 tới 1947, và với mực độ ít hơn cho tới 1953, Maria đã viết khoảng mười lăm ngàn trang giấy vở. Đó là những chú giải về Kinh Thánh, những bài học về giáo lý, những tường thuật về các  Kitô hữu và vác vị tử đạo đầu tiên; các tính chất của lòng đạo đức, không kể các trang nhật ký thiêng liêng. Nhưng khoảng hai phần ba sản lượng văn hoá của Maria Valtorta là tác phẩm vĩ đại về đời sống của Chúa Giêsu.

          Sau khi đã tận hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa, cả cho tới sự thông minh riêng, Maria bắt đầu từ từ khép kín trong nhiều năm, trong sự cô lập nội tâm cho tới ngày chết như vâng lời sự khích lệ của vị linh mục ở bên cạnh, gọi Maria trong lúc hấp hối, đã cầu nguyện với những lời sau này: “Hỡi linh hồn Kitô hữu, hãy ra khỏi thế gian này”. Đó là ngày 12-10-1961. Maria Valtorta  đã để lại như một kỷ niệm câu nói này: “Tôi đã hết chịu đau khổ, nhưng tôi sẽ tiếp tục yêu”.

          Đám táng của Maria được tiến hành tại giáo xứ thánh Paulin ngày 14-10, ngay sáng sớm và rất đơn giản theo ý muốn của bà. Và ngay sau lễ, thi hài được an táng tại nghĩa trang Viareggio. Nhưng ngày 2-7-1973, hài cốt Maria Valtorta được đưa về một ngôi mộ ưu tiên tại Florence, trong hành lang lớn của nhà nguyện Đức Mẹ được truyền tin.

          Tác phẩm quan trọng nhất của Maria Valtorta là tác phẩm về cuộc đời Chúa Giêsu, được viết từ năm 1944 đến 1947, ngoại trừ vài chương trong những năm sau. Nó được quảng bá tại Ý ngay từ 1956 dưới nhan đề: Il poema dell’ Uomo-Dio. Kỳ xuất bản thứ nhất được trình bày trong bốn tập lớn, sau đó tái bản thành mười tập, với những chú thích về thần học và giáo lý của cha Conrad M. Berti hội Tôi Tớ Mẹ Maria. Tác phẩm tiếp tục được tái bản và truyền bá không nhờ một quảng cáo nào. Ngày nay nó đã được biết rộng rãi ở Ý và trên toàn thế giới.

          Về những điều có liên can tới thực chất của tác phẩm, chúng tôi nhìn nhận đây là một trong những mặc khải tư lớn lao nhất. Lại nữa, nó được các nhà thần học công giáo nhìn nhận là một mặc khải có thể có, tùy thuộc vào sự mặc khải chung và đáng tin mà Thiên Chúa chấp nhận cho một số người để ích lợi cho mọi người.

          Chúng tôi xin độc giả miễn thứ cho chúng tôi vì một vài bất toàn trong lần xuất bản này.

Nhà xuất bản Emilio Pisani (Ý)

Ngày 12-10-1979.

 

CHÚ THÍCH CỦA DỊCH GỈA

          Những chú thích này có mục đích giúp cho độc giả dễ hiểu hơn về toàn bộ không gian, thời gian và phong tục của nước Chúa và dân Chúa vào thời của Người, để không phải bỡ ngỡ băn khoăn về những điều khó hiểu trong câu chuyện.

1- Về tên của các nhân vật :

     a) Vì có rất nhiều người trùng tên và thường hiện diện cùng một lúc, nên để phân biệt, tác giả đã viết kèm theo tên gọi của một người:

          * Hoặc tên người cha hay mẹ,

          * Hoặc tên người chồng,

          * Hoặc tên họ,

          * Hoặc tên quê quán,

          * Và đôi khi cả tên anh hay chị.

Vì vậy Judas, kẻ bán Chúa, được gọi bằng những tên sau:

          * Judas Simon (vì bố ông là Simon)

          * Judas Iscariot (tên họ của ông là Iscariot)

          * Judas Kêriot (ông sinh quán tại Kêriot)

Cũng như đối với Mađalêna, bà được gọi là:

          * Maria Mađalêna (tên gọi đầy đủ kiểu Latin)

          * Maria Théophile (bố bà là Théophile),

          * Maria Magđala (bà có cơ nghiệp ở Magđala, bà hành nghề và nổi tiếng ở đó),

          * Maria Lazarô (vì là em Lazarô)

          * Miri (tên cúng cơm)

 b) Như vậy tên của 12 tông đồ của Chúa là :

          * Giacôbê và Gioan: hai con ông Zêbêđê, quê ở Betsaiđa.

          * Giacôbê và Juđa, còn gọi là Thađê, hai con ông Alphê, anh họ của Chúa, quê ở Nazarét.

          * Phêrô và Andrê: hai con ông Jonas, quê Betsaiđa.     

          * Natanael, còn gọi là Batôlômêo hay Bartolmai, người Betsaiđa.

          * Philíp, bạn của Natanael, người Betsaiđa.

          * Mathêu, còn gọi là Lêvi, người Caphanaum.

          * Tôma, biệt hiệu Didyme, người Rama thuộc Juđê.

          * Simon Zêlote, bạn của Lazarô, người Juđê.

          * Judas Iscariot, người Kêriot thuộc Juđê.

     c) Về các nhân vật khác:

          * Alphê: Có Alphê anh ruột của thánh Giuse; Alphê con bà Sara bà con với Thánh Giuse, và Alphê con người anh họ Simon. Vì các Alphê này đều ở Nazarét nên dễ lộn.

     Ngoài ra còn các Alphê khác không quan trọng.

          * Salômê: Có Salômê vợ ông Zêbêđê, mẹ của Giacôbê và Gioan; Salômê vợ của anh họ Simon và Salômê con bà vợ lẽ của Hêrôđê (Hêrôđiađê).

          * Chouza: Có Chouza là chồng của bà Jeanne, ông làm quan trong triều Hêrôđê; và Chouza chồng của bà Suzane có họ với Mẹ, người Cana, nơi Chúa hóa nước thành rượu trong tiệc cưới của ông.

          * Étienne: cựu môn đệ của Gamaliel, sau là môn đệ của Chúa, là vị tử đạo tiên khởi. (trong bản dịch xưa gọi ông là Stéphane, không hiểu vì lý do nào)

          * Tôma: Có Tôma tông đồ và Tôma chủ căn nhà lớn ở Caphanaum, nơi Chúa luôn luôn ở trọ.

          * Nique: người đàn bà đã lau mặt cho Chúa trên đường lên Calvê, quen gọi là Véronique. Trong chuyện này bà luôn luôn được gọi là Nique, có lẽ là tên gọi tắt.

2- Về phong tục : Chỉ có người miền Juđê thuộc nước Juđa mới được gọi là người Do Thái, các người miền Samari và Galilê thì được gọi bằng tên chung là Israel hay Hy Bá (Hebrew). Người Samari chỉ tin vào Ngũ Kinh, tức là năm cuốn đầu của bộ Cựu Ước.

3- Về y phục : Người Do Thái ăn mặc như ta thấy trong các tượng ảnh: bên trong là áo lót, rồi đến một áo giống áo đầm, dài tới  gót, áo làm việc thì cộc hơn, có giây thắt lại ở lưng. Khi ra ngoài thì họ mặc thêm một áo khoác, hoặc thứ có hai vạt giống áo cha làm lễ, hoặc thứ có một vạt giống như áo chầu, tức là một tấm vải rộng được đeo vào cổ nhờ một sợi giây hay một cái khóa. Dù áo một vạt hay hai vạt, luôn luôn có nón che đầu. Phụ nữ ra ngoài luôn luôn có khăn voan che đầu, hoặc trùm nón của áo khoác. Đôi khi khăn phủ kín hết, chỉ có chỗ mắt là bằng vải thưa hay thật mỏng để thấy đường.

4- Nước là điều tối cần cho sự sống, Kinh Thánh nói luôn luôn tới nước. Ở Đất Thánh cũng như các nước phương Tây, người ta có các phông-ten khắp nơi. Mỗi phông-ten gồm một cái bể, có nước liên tục chảy vào, và có đường dẫn nước tràn đến các nơi khác thấp hơn. Nguồn nước ngày xưa hoàn toàn là thiên nhiên, từ trên núi đồi chảy xuống. Phông-ten không phải bể nước, không phải vòi nước máy, cũng không phải giếng nước, vì vậy dịch giả giữ nguyên tên phông-ten (fontaine).

5- Về các giáo phái: Trong đạo Do Thái có rất nhiều giáo phái, và hầu hết là kình địch nhau. Trong thời Chúa giảng Tin Mừng, họ tạm đoàn kết với nhau, hy vọng có đủ sức mạnh để chống lại Chúa.

     Các giáo phái chính là:

     a. Phái Pharisiêu, còn gọi là biệt phái: Họ rất mạnh nhờ số đông và giữ các chức vụ quan trọng. Họ chủ trương giữ luật Môise cách tỉ mỉ. Qua các thế kỷ, họ đã thêm vào luật này 613 giáo điều và mọi người phải học thuộc lòng để giữ.

     b. Phái luật sĩ: Những ủy viên tài phán quan trọng, chuyên ghi chép và lưu truyền luật.

     c. Thầy cả hay rabbi:những người lo việc tế tự trong Đền Thờ và giảng dạy dân chúng.

     d. Phái Saddu:giáo phái nhỏ, hầu hết là thầy cả, nhưng họ chủ trương không có sự sống lại.

     e. Phái khổ hạnh: chủ trương sống khổ hạnh để linh hồn được sống lại, nhưng họ không tin có sự sống lại của thân xác vào ngày tận thế. Một số còn chủ trương vận mệnh con người đã được tiền định hết.

6- Về các địa danh :Vào thời chúa Giêsu, nước của Người chia làm ba miền mà người dân ở mỗi miền đều khinh bỉ dân ở hai miền kia:

     a. Juđê:miền đất thuộc nước Juđa, ở phía Nam, với thủ đô là Jêrusalem và Đền Thờ xây trên núi Moriah.

     b. Samari:đất ở trung tâm, có thủ đô là Sychar, còn gọi là Sichem, với Đền Thờ xây trên núi Garizim. Cũng có một tỉnh Samari ở vùng này.

     c. Galilê:miền đất phía bắc, mọi hoạt động chính đều ở quanh vùng biển Galilê (còn gọi là hồ Gênêsarét hay hồ Tibêriat).

     d. Ngọn núi cao nhất của Israel là ngọn đại Hermon. Cũng có một núi Hermon nhỏ nữa (tiểu Hermon).

     – Có hai tỉnh Betlem:Betlem thuộc Galilê và Betlem thuộc Juđê (nơi Chúa sinh ra)

     – Có hai vùng Cêsarê:một Cêsarê thuộc quyền Philíp Hêrôđê, (em của Antipa Hêrôđê), gọi là Cêrasê Philíp. Thủ đô của Cêsarê Philíp là Cêsarê Panéade, nơi xây dựng dinh Thủ Hiến; và Cêsarê ở ven biển, gọi là Cêsarê Maritime.

     – Có hai Emmau:một tỉnh Emmau lớn thuộc về Juđê, nơi Chúa Phục Sinh tỏ mình ra với hai môn đệ, và Emmau nhỏ thuộc về Tibêriat.

     – Diaspora:là tên gọi chung tất cả những miền có dân Hy Bá cư ngụ ở bên ngoài lãnh thổ Palestin.

7- Trong toàn tác phẩm, những chữ in nhỏ trong ngoặc bên cạnh một chữ khó hiểu, là ghi chú của dịch gỉa

                                           

                                                    MỤC LỤC

Tựa……………………………………………………………………………………. 5

Chú thích của dịch giả ………………………………………………………… 9

1* “Người ta có thể gọi Maria là con thứ của Chúa Cha” …….. 15

2* Joakim và Anna khấn với Chúa …………………………………….. 16

3* Anna cầu nguyện ở Đền Thờ và Thiên Chúa nhận lời bà … 21

4*“Joakim đã kết hôn với sự khôn ngoan của Thiên Chúa, được giữ kín trong con tim của người đàn bà công chính” … 25

5* Anna, với một thánh vịnh, loan báo chức làm mẹ của bà …. 27

6* “Đấng Vô Tì Vết không bao giờ ngừng tưởng nhớ tới Thiên Chúa”  30

7* Việc sinh hạ Đức Trinh Nữ Maria …………………………………. 33

8* “Linh hồn Người đã xuất hiện đẹp đẽ nguyên vẹn như khi Thiên Chúa nghĩ tới”  41

 9* “Bông huệ của má! Trong ba năm nữa, con sẽ ở đây” …….. 52

10* “Đây, con trẻ vẹn toàn với qủa tim bồ câu” …………………. 56

11* “Niềm vui của má! Làm sao con biết những điều thánh này? Ai đã nói cho con?” 58

12* “Người con đã chẳng đặt sự khôn ngoan của chính Người trên môi mẹ mình sao?” 64

13* Maria được dâng vào Đền Thờ ……………………………………. 66

14* “Người Trinh Nữ Đời Đời chỉ có một tư tưởng: hướng lòng Người lên cùng Thiên Chúa”  72

15* Cái chết của Joakim và Anna ……………………………………… 74

16* “Chắc con sẽ là mẹ Đấng Kitô” …………………………………. 78

17* “Mẹ thấy lại tất cả những gì thần trí mẹ đã thấy nơi Thiên Chúa” 85

18* “Thiên Chúa sẽ ban cho con người chồng. Ông sẽ là thánh, vì con đã phó mình cho Thiên Chúa. Con   sẽ nói với ông lời khấn của con” …………………………. 88

19* Giuse được chỉ định làm chồng của người Trinh Nữ …….. 93

20* Hôn lễ của người Trinh Nữ với Giuse …………………………. 100

21* “Giuse được đặt như ấn tín trên ấn tín, như một Tổng Thần trước cửa Thiên Đàng” 107

22* Đôi tân hôn về tới Nazarét ……………………………………….. 110

23* Truyền tin ……………………………………………………………….. 118

24* Sự bất tuân của Evà thứ nhất ……………………………………. 122

25* Evà mới thực thi sự vâng lời trong mọi dịp …………………. 126

26* Một lời giải thích nữa về tội nguyên tổ ……………………… 132

27* Báo cho Giuse về việc Êlisabét có thai ……………………… 135

28* “Hãy để Ta lo việc biện minh cho con với chồng của con” 139

29* Maria và Giuse đi Jêrusalem ……………………………………. 142

30* Từ Jêrusalem tới nhà Zacari …………………………………….. 144

31* “Đừng bao giờ lột bỏ sự bảo vệ của lời cầu nguyện” ….. 146

32* Tới nhà Zacari …………………………………………………………. 148

33* Maria tiết lộ Thánh Danh cho Êlisabét ……………………… 153

34* Maria nói về Con Mẹ ………………………………………………. 158

35* “Ơn của Thiên Chúa phải luôn luôn làm cho chúng ta nên tốt hơn”161

36* Việc sinh hạ ông Tẩy Giả …………………………………………. 163

37* “Sự trông cậy tươi nở như một bông hoa cho kẻ tựa đầu vào lòng từ mẫu của mẹ” 170

38* Lễ cắt bì cho ông Tẩy Gỉa ………………………………………… 171

39* Hãy sửa soạn tâm hồn các con để đón nhận ánh sáng … 174

40* Lễ dâng Gioan Tẩy Giả vào Đền Thờ ……………………….. 176

41* “Nếu Giuse ít thánh thì Thiên Chúa đã không ban ánh sáng của Người cho ông” 182

42* Maria Nazarét giải thích với Giuse ……………………………. 185

43* “Hãy để Thiên Chúa lo việc công bố cho các con là đầy tớ của Người”  188

44* Chiếu chỉ kiểm kê dân số …………………………………………. 190

 45* “Yêu là làm thỏa lòng người yêu vượt ra ngoài tình cảm và lợi lộc”194

46* Cuộc hành trình về Bétlem ………………………………………. 196

47* Chúa Giêsu giáng sinh ……………………………………………… 201

48* “Mẹ là Maria, mẹ đã cứu chuộc người đàn bà bằng việc làm mẹ bởi Thiên Chúa của mẹ” 207

49* Các mục đồng thờ lạy ………………………………………………. 211

50* “Nơi các mục đồng có tất cả những đức tính cần thiết để làm kẻ thờ lạy Ngôi Lời”  222

51* Cuộc viếng thăm của Zacari …………………………………….. 223

52* “Thánh Giuse cũng bảo vệ các linh hồn được thánh hiến” 228

53* Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thờ ………………………………… 231

54* Những giáo huấn giãi tỏa ra từ cảnh trước …………………. 236

55* Bài hát ru của Đức Trinh Nữ …………………………………….. 239

56* Ba nhà Đạo Sĩ thờ lạy ……………………………………………… 242

57* Suy niệm về Đức Tin của các nhà Đạo Sĩ ………………… 250

58* Trốn sang Ai Cập ……………………………………………………..258

59* “Sự đau khổ đã là bạn trung thành của chúng ta. Nó có mọi vẻ mặt khác nhau và mọi thứ tên” 264

60* Thánh gia tại Ai Cập ………………………………………………… 269

61* “Trong căn nhà này, trật tự được kính trọng” ……………… 274

62* Bài học đầu tiên về việc làm của Chúa Giêsu …………… .279

63* “Cha đã không muốn băng qua các định luật về sự phát triển một cách ồn ào”  281

64* Maria là cô giáo của Giêsu, Giacôbê và Juđa ……………. 284

65* Chuẩn bị y phục cho lễ Vị Thành Niên của Chúa Giêsu  292

66* Khởi hành từ Nazarét cho lễ thành niên của Chúa Giêsu 295

67* Sát hạch về tuổi trưởng thành của Chúa Giêsu tại Đền Thờ  297

68* Giêsu thảo luận với các tiến sĩ ở Đền Thờ ………………… 303

69* Sự đau đớn của Maria khi lạc mất Giêsu ………………….. 313

70* Thánh Giuse qua đời ………………………………………………. 315

71* “Maria đã cảm thấy một đau đớn sắc nhọn do cái chết của Giuse”  322

72* Kết luận về đời sống ẩn dật ………………………………………323

Hết quyển một.

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/05/cavathanhgia.gif

by Tháng Chín 6, 2012 Comments are Disabled Cuộc đời Chúa Giê-su (Maria Valtorta)
Maria Valtorta 3

Maria Valtorta 3

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/08/TIN-MUNG-nhu-da-duoc-ven-mo-cho-Toi1.jpg

III. Các phản ứng, ý kiến và lập trường ủng hộ tích cực của một số nhân vật uy tín trong Giáo Hội đối với tác phẩm của bà Maria Valtorta

 1. Chân phước Linh Mục G.M. Allegra, dòng Phanxicô

       Giữa các năm 1968 và 1970 từ Macao cha đã đưa ra các nhận xét dài về tác phẩm của bà Maria Valtorta. Cha khẳng định rằng ”Bài Thơ được trình bầy với chúng ta như việc bổ túc cho bốn Phúc Âm và như là một giải thích chúng. Nữ tác giả là người minh giải các cảnh trong Phúc Âm”.

      ”Nói tóm gọn. Giáo Hội không cần tác phẩm này để thực thi sứ mệnh cứu rỗi của mình cho tới khi Chúa đến lần thứ hai, cũng như Giáo Hội đã không cần các vụ hiện ra của Đức Mẹ tại La Salette, Lộ Đức, Fatima… Nhưng Giáo Hội có thể, một cách ngấm ngầm hay công khai, thừa nhận rằng các mạc khải tư có thể ích lợi cho việc hiểu biết và thực thi Tin Mừng và có lợi cho việc hiểu các mầu nhiệm của nó và vì thế chấp nhận trong hình thức tiêu cực, bằng cách tuyên bố rằng các mạc khải đó không trái nghịch với đức tin, hay một cách chính thức có thể không biết đến các mạc khải ấy, và để cho con cái mình tự do xét đoán chúng.

       Trong hình thức tiêu cực đã được thừa nhận các mac khải của thánh nữ Brigida, thánh nữ Matilde, thánh nữ Gertrude, Đấng đáng kính E’Agreda, thánh Gioan Bosco và nhiều thánh nam nữ khác.

       Có sự cách biệt rất lớn khi so sánh ”Bài thơ của Con Người Thiên Chúa” với các tác phẩm khác như các ”Mạo thư của Thánh Kinh Tân Ước”, đặc biệt là các ”Mạo thư thời thơ ấu” và các ”Mạo thư của biến cố hồn xác lên trời”. Cả với các mạc khải của các vị đáng kính Emmerich hay D’Agreda vv… cũng có khoảng cách, vì trong các mạc khải tư này người ta cảm thấy có ảnh hướng của các người thứ ba. Đó tuyệt nhiên không phải là trường hợp tác phẩm ”Bài thơ của Con Người Thiên Chúa”. Lý do là vì giáo thuyết thần học, kinh thánh, địa lý, lịch sử, địa hình… rộng rãi và chắc chắn của nó. Các tiểu thuyết nổi tiếng như: ”Ben Hur”, ”Chiếc áo choàng”, ”Người ngư phủ vĩ đại”, ”Chén thánh bằng bạc”, ”Ngọn giáo”… cũng không tài nào sánh nổi với sự giao thoa giữa cái tự nhiên, tự phát, tuôn trào từ bối cảnh của các biến cố và tính tình của biết bao nhiêu nhân vật – cả một đám đông dân chúng đích thực – làm thành cái đà chính trong Bài thơ của Con Người Thiên Chúa.

       Ngoài ra tuy thông minh, có trí nhớ dai và sắc sảo, nhưng Maria Valtorta đã không học hết bậc trung cao học, lại bị nhiều thứ bệnh trong nhiều năm trời và nằm liệt giường. Trong phòng bà chỉ có vài cuốn sách trên kệ, và bà cũng đã không đọc bộ chú giải Thánh Kinh nào sở đĩ có thể biện minh hay giải thích nền văn hóa kinh thánh gây kinh ngạc. Bà đã chỉ sử dụng cuốn Thánh Kinh của cha Tintori, dòng Phanxicô, thế mà đã viết ra tác phẩm ”Bài thơ của Con Người Thiên Chúa” 10 cuốn chỉ trong vòng bốn năm, từ 1943 đến 1947…

       Tôi cho rằng tác phẩm của bà Maria Valtorta đòi hỏi một nguồn gốc siêu nhiên. Tôi nghĩ rằng nó là một sản phẩm của một hay nhiều đặc sủng và phải được nghiên cứu dưới ánh sáng của các đặc sủng, bằng cách sử dụng cả các đóng góp của các nghiên cứu tâm lý mới đây của các khoa học liên hệ…

      Chính các đặc sủng được Thần Khí-Giêsu rộng ban cho thiện ích của Giáo Hội, để xây dựng Thân Mình Chúa Kitô; và tôi không thấy làm sao có thể khước từ rằng ”Bài Thơ” xây dựng và yêu thương các con cái của Giáo Hội. Chắc chắn đức ái là con đường tuyệt vời nhất (1 Cr 13,1); người ta cũng đã biết rằng có vài đặc sủng đầy tràn trong Giáo Hội thời khai sinh, sau đó đã hiếm mất, nhưng người ta cũng chắc chắn rằng chúng đã không bao giờ hoàn toàn tắt lịm. Vì thế qua các thế kỷ Giáo Hội tiếp tục xem chúng có đến từ Thần Khí của Đức Giêsu hay là một ngụy trang của thần trí tối tăm, giả làm thiên thần ánh sáng: Hãy cân nhắc thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không (1 Ga 4,1).

       Giờ đây, không đi trước phán đoán của Giáo Hội, mà kể từ lúc này tôi chấp nhận với sự tuâm phục tuyệt đối, tôi cho phép mình khẳng định rằng, vì lời Chúa là tiêu chuẩn chính để phân định các thần khí: ”Từ các trái của chúng các con sẽ nhận biết chúng… ” (Mt 3,20), và vì ”Bài Thơ” đang sinh ra các trái tốt lành nơi một số ngày càng đông các độc giả, tôi nghĩ rằng nó đến từ Thần Khí của Đức Giêsu”.

 2. Linh Mục Gabriele M. Roschini, người sáng lập Phân khoa thần học tại Học viện Marianum, chuyên viên thánh mẫu học, tác giả của 130 cuốn sách, cố vấn Tòa Thánh

       Trong cuốn sách tựa đề ”Đức Trinh Nữ Maria trong tác phầm của bà Maria Valtorta” cha Roschini ghi nhận trong phần dẫn nhập như sau: ”Tôi phải đơn sơ chấp nhận rằng thánh mẫu học nổi lên từ các bút tích đã xuất bản và chưa xuất bản của Maria Valtorta, đối với tôi, đã là một khám phá thực sự. Không có một chất liệu nào khác, kể cả tổng thể của tất cả những gì tôi đã đọc và nghiên cứu, đã có thể cho tôi một ý tưởng rõ ràng, sống động, đầy đủ và sáng ngời đồng thời hấp dẫn, đơn sơ và cao cả như vậy về Đức Maria, tuyệt tác của Thiên Chúa”.

 3. Linh Mục Francois-Paul Dreyfus, dòng Đaminh (1918-1999) thuộc Trường Thánh Kinh và Khảo Cổ Giêrusalem

       Cha Dreyfus viết trong lá thư gửi nhà xuất bản năm 1986 như sau: ”Tôi đã rất bị ấn tượng tìm thấy trong tác phẩm của Maria Valtorta tên của ít nhất sáu hay bẩy thành phố không xuất hiện trong Thánh Kinh Cựu Ước cũng như Thánh Kinh Tân Ước. Các tên này chỉ được vài chuyên viên hiếm hoi biết tới, và nhờ các nguồn tại liệu không kinh thánh”.

      Tưởng cũng nên biết rằng tác phẩm của bà Maria Valtorta miêu tả 178 thành phố và nơi chốn khác nhau.

      Bà Maria Valtorta cũng dùng các từ rất chính xác trong bối cảnh lịch sử do thái. Trong một bức thư gửi nhà xuất bản năm 1952 tiến sĩ Vittorio Tredici, Chủ tịch Hiệp hội quặng mỏ Italia xác nhận rằng bà Maria Valtorta ”có sự hiểu biết chính xác các khía cạnh toàn cảnh, địa hình, địa chất và quẻng mỏ của đất Palestina”. Khó mà có thể gán cho bà là người ít học, một sự hiểu biết khoa học chính xác sâu rộng như thế.

 4. Đức Giáo Hoàng Pio XII cai quản Giáo Hội từ 2-3-1939 tới 9-10-1958.

        Ngày 26-2-1048 Đức Thánh Cha Pio XII đã nhận được văn bản tác phẩm của bà Maria Valtorta từ tay cha giải tội của ngài là Linh Mục Agostino Bea dòng Tên. Sau đó Đức Giáo Hoàng tiếp 3 linh mục dòng Các Tôi Tớ Đức Maria (OSM) là cha Migliorini cha giải tội của bà Maria Valtorta, cha Berti, giáo sư thần học tín lý, và cha Andrea M. Cecchin, bề trên của hai cha. Đức Pio XII chấp thuận tác phẩm và khyuyên các cha công bố toàn bộ không cắt xén gì, kể cả những tuyên bố rõ ràng kể lại các ”thị kiên” hay các ”lời đọc cho viết”, nhưng không chấp thuận lời dẫn nhập nói tới một hiện tượng siêu nhiên.

      Tất cả các chứng tá của các cha liên quan tới phép của Đức Pio XII được lưu giữ trong vương cung thánh đường Đức Mẹ hồn xác lên trời tại Firenze trung bắc Italia, nơi có mộ của bà Maria Valtorta.

 5. Đức Giáo Hoảng Phaolô VI cai quản Giáo Hội từ 21-6-1963 tới 6-8-1978.

       Ngày 17-1-1974 văn phòng thư ký của Đức Thánh Cha gửi cha Roschini thư Đức Phaolô VI cám ơn và chúc mừng vì công việc nghiên cứu tác phẩm của bà Maria Valtorta. Thư viết: ”Cha đã muốn gửi tới Đức Thánh Cha một ấn bản cuốn sách cuối cùng của cha ”Đức Trinh Nữ Maria trong các bút tích của maria Valtorta”. Đức Thánh cha đánh giá cao lòng hiếu thảo và nhiệt tình của cha cũng như kết qủa qúy báu và hết lòng cám ơn chứng tá với qùa tặng hiếu thảo của cha và cầu chúc cho các cố gắng của cha gặt hái các hoa qủa tinh thần phong phú”.

       Trước đó năm 1963 trong một cuộc gặp gỡ với cha Berti, Đức Ông Pasquale Macchi, thư ký của Đức Phaolô VI, đã xác định rằng tác phẩm của bà Maria Valtorta thật ra đã không bị cấm (mặc dù lệnh cấm chưa được hủy bỏ), và ngài cũng kể rằng hồi còn là Tổng Giám Mục Milano Đức Montini đã đọc một trong bốn cuốn tác phẩm của Maria Valtorta và tặng Đại chủng viện Milano trọn bộ.

 6. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cai quản Giáo Hội từ ngày 13-10-1978 đến ngày 2-4-2005.

       Đức Gioan Phaolô II đã không lên tiếng về trường hợp của bà Maria Valtorta. Chỉ có Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, Tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin, bầy tỏ lập trường không ủng hộ việc phổ biến tác phẩm, vì sợ nó ảnh hưởng trên ”những người ngây thơ hơn”. Tuy nhiên, trong bức thư gửi Đức Hồng Y Siri, Tổng Giám Mục Genova hồi năm 1985, Đức Hồng Y Tổng Trưởng để cho Đức Hồng Y Siri tự do trả lời cho một linh mục thuộc giáo phận Genova hỏi cho biết tác phẩm có phải là mạc khải tư không.

       Sau này trong bức thư đề ngày 6-5-1992, chính Đức Hồng Y Ratzinger đã xin Hội Đồng Giám Mục Italia yêu cầu nhà xuất bản minh xác trong các ấn bản tương lai rằng tác phẩm của bà Maria Valtorta phải được coi như một tác phẩm văn chương cá nhân.

       Đức Gioan Phaolô II đã chủ sự lễ phong Thánh cho cha Pio Năm Dấu Thánh và Mẹ Têrêxa Calcutta, là hai độc giả của bà Maria Valtorta.

 7. Đức Ông Alfonso Carinci (1862-1963), Thư ký Bộ các Lễ Nghi, hiện nay là Bộ Phong Thánh

       Năm 1964 Đức Ông Carinci nhận xét về tác phẩm của bà Maria Valtorta như sau: ” ”Phải phán đoán theo thiện ích mà người ta cảm nhận khi đọc cuộc đời Chúa Giêsu của bà Maria Valtorta, theo ý kiến khiêm tốn của tôi, một khi được xuất bản, tác phẩm này có thể đem nhiều linh hồn về với Chúa: kẻ tội lỗi được hoán cải, và người tốt lành có cuộc sống sồt mến và tích cực hơn. Trong khi sách báo phim ảnh vô luân xâm lăng thế giới và làm cho con người hư hỏng, tôi tự dưng ao ước cảm tạ Chúa đã cho chúng ta, qua trung gian của người đàn bà đã đau khổ biết bao nhiêu và bị đóng đinh trên gường này, một tác phẩm trác tuyệt về bình diện văn chương, cao cả, có thể hiểu được, và sâu sắc trên bình diện giáo lý và tinh thần, lôi cuốn người đọc, và có khả năng được quay thành phim hay trình diễn trong kịch nghệ thánh. Tôi đã thông truyền tư tưởng của tôi cũng như tư tưởng của các thần học gia và chuyên viên chú giải kinh thánh có gía trị lớn như cha Béa, như Đức Ông Lattanzi, giáo sư thần học nền tảng tại Đại học giáo hoàng Laterano, nhưng mặc dầu vậy, đương nhiên là tôi sẵn sàng sửa sai, nếu Đức Thánh Cha phán đoán một cách khác”.

 8. Đức Hồng Y Edward Gagnon (1918-2007), cựu Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Gia đình cho tới năm 1990

       Là một chuyên viên kiểm duyệt sách đạo và là tác giả cuốn ”Việc kiểm duyệt các sách” Ed. Fides, Montreal, 1945, Đức Hồng Y đã cho rằng ”kiểu cho phép ấn hành của Đức Thánh Cha Pio XII hồi năm 1948, trước các chứng nhân” phù hợp với các đòi hỏi của Giáo Luật.

 9. Đức Hồng Y Agostino Bea (1881-1968), dòng Tên, Giám đốc Học Viện Thánh Kinh Roma và là cha giải tội của Đức Giáo Hoàng Pio XII

       Hồi năm 1952 cha Bea viết: ”Tôi đã đọc nhiều cuốn khác nhau trong bộ sách của bà Maria Valtorta, bằng cách đặc biệt chú ý đến các lãnh vực chú giải, lịch sử, khảo cổ và địa hình. Liên quan tới chú giải kinh thánh của tác phẩm tôi đã không gặp thấy các sai lầm quan trọng trong các tập mà tôi đã xem xét. Ngoài ra, tôi đã rất bị ấn tượng bởi sự kiện các miêu tả khảo cổ và địa hình đã được làm với một sự chính xác đặc sắc. Liên quan tới vài yếu tố diễn tả một cách ít chính xác hơn, được tôi hỏi qua một người trung gian, tác giả đã cho các câu trả lời thỏa đáng. Đây đó có một vài cảnh xem ra miêu tả một cách qúa phân tán cũng như một cách rất mầu mè. Nhưng nói chung, việc đọc tác phẩm không chỉ là điều hay và dễ chịu, mà còn thực sự khuyến thiện nữa. Và nó giáo dục đối với những người ít hiểu biết hơn liên quan tới các mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu”.

 10. Mẹ Têrêxa Calcutta (1910-1997) đã được Đức Gioan Phaolô II phong Chân phước

       Theo lời kể của Linh Mục Leo Maasburg, phụ trách các Nam thừa sai bác ái của Mẹ Têrêxa tại Vienne, thủ đô nước Áo, và là người thỉnh thoảng giải tội cho Mẹ trong 4 năm, Mẹ Têrêxa luôn luôn mang theo ba cuốn sách khi di chuyển: Đó là sách Thánh Kinh, Kinh Thần Vụ và một cuốn sách thứ ba. Khi cha hỏi Mẹ là sách gì, thì Mẹ trả lời là một cuốn sách của bà Maria Valtorta. Khi cha hỏi nội dung cuốn sách, thì Mẹ trả lời và lập lại một cách đơn sơ ”Cha hãy đọc nó”.

       Trong một cuộc phỏng vấn dành cho ”Nguyệt san kitô” số ra ngày 15-3-2009 liên quan tới thái độ của Mẹ Têrêxa đối với tác phẩm của bà Maria Valtorta cha Maasburg xác nhận một cách đơn sơ rằng ”tôi nhớ một cách rõ ràng phản ứng tích cực của Mẹ, mà không nhớ các chi tiết”.

 11. Cha Pio thành Pietrelcina mang năm dấu thánh (1887-1968) đã được Đức Gioan Phaolô II phong hiển thánh

       Một năm trước khi cha Pio qua đời, bà Elisa Lucchi, một ngưới tới xưng tội với cha xin lời khuyên liên quan tới việc đọc tác phẩm ”Bài thơ của Con Người Thiên Chúa” cha Pio trả lời: ”Không nhũng cha cho phép, mà còn khuyên con đọc nó nữa”.

       Các con đường cuộc sống của bà Maria Valtorta và của cha Pio Năm Dấu Thánh gần nhau tới độ đã có một cuốn sách viết về đề tài này. Cha Pio cũng đã bị Thánh Văn Phòng (tức Bộ Giáo Lý Đức Tin) lên án, và bị Đức Hồng Y Ottaviani, Tổng tưởng của Bộ trách mắng năm 1961.

      (Nguyệt san Kitô số đặc biệt tháng 3 năm 2009; Emilio Pisani, ”Cha Pio và bà Maria Valtorta”, Ed. CEV, 2000).

 12. Cha Gabriele M. Roschini (1900-1977), người thành lập Phân khoa thần hoc của Học viện Marianum và là cố vấn Tòa Thánh

       Cha là triết gia, thần học gia, chuyên viên thánh mẫu học và lịch sử cuộc đời các thánh, tác giả của 130 cuốn sách. Trong phần dẫn nhập cuốn sách của cha tựa đề ”Đức Trinh Nữ Maria trong tác phẩm của bà Maria Valtorta”, cha viết: ”Ai muốn hiểu biết Đức Trinh Nữ Thánh trong sự hòa hợp với Công Đồng Chung Vaticăng II, Thánh Kinh và Truyền Thống của Giáo Hội, phải kín múc nơi thánh mẫu học của bà Maria Valtorta… bởi vì Đức Trinh Nữ Maria trong tác phẩm của bà Maria Valtorta là cuốn sách quan trọng nhất trong các sách của tôi. Bà Maria Valtorta (1897-1961) thành Viareggio Italia là một trong 18 nhà thần bí lớn nhất mọi thời đại… thánh mẫu học được suy diễn ra từ các bút tích đã được công bố và chưa được in ấn của bà Maria Valtorta đã là một khám phá thực sự đối với tôi. Đã không có bút tích thánh mẫu nào khác, kể cả tổng số của tất cả những gì tôi đã học và nghiên cứu, đã có thể cho tôi một ý tưởng rõ ràng, sống động, đầy đủ, sáng láng và cũng hấp dẫn, đồng thời đơn sơ và cao cả về Đức Maria, tuyệt tác của Thiên Chúa như các bút tích của bà Maria Valtorta”.

 13. Linh Mục René Laurentin (sinh năm 1917), thần học gia, nhà chú giải Thánh Kinh, chuyên viên sử học, từng là cố vấn trong Công Đồng Chung Vaticăng II

       Cha Laurentin là tác giả của 160 cuốn sách về thánh mẫu học cũng như các lần hiện ra của Đức Mẹ trên thế giới, là lãnh vực nghiên cứu chuyên môn của cha. Trong nguyệt san Kitô số 218 ra ngày 15-03-2009 cha đã viết về bà Maria Valtorta như sau: ”Bà Maria Valtorta nổi bật và được khuyên đọc trong nhiều cách… Cuộc sống khổ đau lâu dài của bà đã được sống trong sự phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa, làm chứng cho sự thánh thiện của bà. Bà không rời xa Tin Mừng, không trái nghịch với Tin Mừng trong phần nào hết, không thêm vào đó các giáo huấn xa lạ, và tương hợp với tinh thần của Tin Mừng. Ngoài ra, bà thêm vào các giai thoại được Tin Mừng trình thuật, các giai thoại khác không được biết đến, cả khi chúng đựơc viết một cách dễ dàng bên lề Tin Mừng mà không trái nghịch và ngắt quãng. Điều này thuận lợi cho bà… Tôi đã thu thập các đồng ý rộng rãi nhất, đứng hàng đầu là sự đồng ý của Đức Giáo Hoàng Pio XII, là người che chở bà một cách kín đáo khỏi Thánh Văn Phòng… Nhưng tác phẩm của bà Maria Valtorta không phải là một Phúc Âm thứ năm”.

       (Nguyệt san Kitô số 218 ngày 15-3-2009, tr. 7)

 14. Linh Mục Gabriele Allegra (1907-1976) dòng Phanxicô, dịch giả Thánh Kinh tiếng Hoa, đã được Đức Gioan Phaolô II phong Chân phước

       Là chuyên viên kinh thánh, từ năm 1965 cha đã say mê tác phẩm của bà Maria Valtorta, và trong các năm 1968-1970 đã viết cuốn chú giải tác phẩm của bà Maria Valtorta, đã được ấn hành năm 1985 trong dịp mở án phong chân phước cho cha.

 15. Đức Cha Roman Danylak, Giám Mục Nissa bên Ucraine

      Đức Cha đã bênh vực tác phẩm của bà Maria Valtorta bằng cách duyệt lại các biến cố và trả lời cho những người nêu vấn nạn liên quan tới tác phẩm. Sau đây là vài nhận xét của Đức Cha.

       1/ Nhiều người đưa ra các vấn nạn đã không biết rằng tác phẩm đã được nhiều người đọc trong thập niên 1950 cũng như các lời tuyên bố thuận lợi của những người sống thời đó đối với tác phẩm, và một cách đặc biệt là việc đào sâu thần học và chú giải khoa học của cha Corrado Berti, một thần học gia tên tuổi, đối với ấn bản tiếng Ý in lần thứ hai.

       2/ Các tác phẩm của bà Maria Valtorta không chứa đựng điều gì đáng trách cứ trên bình diện thần học, luân lý hay kinh thánh, cũng không có gì trái với giáo huấn của Giáo Hội hay chống lại huấn quyền của Giáo Hội. Đó là kết luận của nhiều vị có quyền bính khác nhau cũng như của các phê bình đối với tác phẩm.

       3/ Tôi đã nghiên cứu cặn kẽ tác phẩm ”Bài Thơ của Con Người Thiên Chúa” không chỉ trong bản dịch tiếng Anh, mà trong ấn bản gốc tiếng Ý với các ghi chú phê bình của cha Berti. Và tôi khẳng định gia trị thần học của cha và vui lòng tiếp nhận sự khéo léo cũng như ý niệm phê bình của cha đối với ấn bản tiếng Ý. Ngoài ra, tôi cũng đã nghiên cứu các Tập viết của bà Maria Valtorta trong các năm 1943-1950. Và tôi muốn xác định sự chính thống thần học của chúng.

       4) Mặc dù có vài lời tuyên bố chống lại, nhiều thần học gia uy tín, nhiều nhà nghiên cứu Thánh Kinh đã nghiên cứu tác phẩm Bài Thơ xác nhận sự cẩn thận của các miêu tả nơi chốn và địa lý của bà Maria Valtorta và sự hiểu biết chính xác Thánh Địa của bà. Và chúng ta phải nhớ rằng bà không có sức khỏe cũng đã không có cơ may nghiên cứu hay đặt tương quan giữa các quan sát của bà.

       5/ ”Khi đọc 5 cuốn bản tiếng anh hay 10 cuốn bản tiếng Ý, tôi đã rất ngạc nhiên về bản lãnh của bà, không chỉ đối với việc sáng tác văn thơ, mà cả đối với các chi tiết, các nhân vật, các biến cố của trình thuật tin mừng. Tôi tìm thấy các xác nhận ý nghĩa liên quan tới nhiều nhân vật, các tông đồ, các môn đệ, các hối nhân vv… được nhắc tới không chỉ trong Thánh Kinh, mà cả trong truyền thống phụng vụ và giáo phụ của Giáo Hội, và trong truyền thống Bisantine nữa. Các nhân vật của tác phẩm không phải là những người tưởng tượng, như miêu tả trong trình thuật của một thị nhân khác là bà Catherine Emmerich, nhưng là những người thật, mà căn tính được xác nhận bởi các Giáo Phụ và các lễ phụng vụ của Giáo Hội Bisantine.

       Tôi chắc chắn rằng chúng ta sẽ tìm thấy các xác nhận giống như thế trong truyền thống giáo phụ của Tây Phương…

       Ngoài ra, chúng ta tìm thấy trong các trình thuật của bà Maria Valtorta các câu trả lời cho nhiều vấn nạn kinh thánh đã được thảo luận và nhắc đi nhắc lại trong nhiều thế kỷ bởi các nhà nghiên cứu Thánh Kinh và các thần học gia, vì các trái nghịch bề ngoài trong các tường thuật về sự Phục sinh, giữa các Phúc Âm Nhất Lãm và Phúc Âm thánh Gioan.

       Sau cùng bà Maria Valtorta trình bầy một trong những hình ảnh linh động nhất, đẹp nhất, sống động và có tính thuyết phục của Chúa Giêsu, mà tôi chưa từng gặp bao giờ. Nhiều độc gỉa đã củng cố đức tin của mình và đã kín múc được một sự hiểu biết sâu xa hơn về các tác phẩm hợp quy luật của Thánh Kinh Tân Ước. Tác phẩm ”Bài Thơ của Con Người Thiên Chúa” đáng được nghiên cứu.

       Tôi nhiệt liệt khích lệ tất cả các chuyên viên phê bình nghiên cứu tác phẩm ”Bài thơ của Con Người thiên Chúa”, hay ”Phúc Âm như đã được mạc khải cho tôi”, bằng cách đọc toàn tác phẩm, và không dựa trên các ấn tượng hời hợt bề ngoài, hay trên các biên soạn được lập lại nhiều nhất của các nhà phê bình khác. Tôi chắc chắn là họ sẽ tìm thấy trong đó sự an bình và niềm vui, một sự hiểu biết sâu xa và thân tình hơn về Chúa Cứu Thế của chúng ta và Đức Trinh Nữ Mẹ Người, mà tôi và biết bao nhiêu độc giả khác rải rác trên thế giới đã tìm thấy.

       (Internet: Dossier Maria Valtorta tr. 48-53)

  16) Xác nhận của Đức Mẹ Mediugorje

       Năm 1982, do yêu cầu của nhiều độc giả của bà Maria Valtorta, linh mục Franjo xúi chị Marija, một trong các thanh thiếu niên được trông thấy và nói chuyện với Đức Mẹ, hỏi Đức Mẹ xem có thể đọc cuốn sách này không, thì Đức Mẹ trả lời: ”Các con có thể đọc nó”.

       Ngày 27-1-1988, trong một cuộc phỏng vấn dành cho ông Jan Conell, một trạng sư người Mỹ, chị Vicka, một trong các người trẻ nhìn thấy Đức Mẹ hiện ra và nói chuyên với Đức Mẹ, cho biết chi tiết hơn.

       Hỏi: Có một mạc khải tư gồm 4 cuốn của Maria Agreda, tựa đề ”Kinh thành thần bí của Thiên Chúa”. Giáo Hội đã chấp thuận khảo luận này như là mạc khải tư. Chị có biết gì về tác phẩm này không?

       Đáp: Chắc chắn là tôi có biết chứ. Đức Mẹ đã nói tới tôi rằng đó là một văn bản đích thực kể lại cuộc đời Mẹ.

       Hỏi: Có các sách nào khác thuộc loại này mà Đức Mẹ đã nói với các bạn không?

       Đáp: Có. Bộ ”Phúc Âm như đã được mạc khải cho tôi” mười cuốn của bà Maria Valtorta. Đức Mẹ nói rằng: ”Phúc Âm như đã được mạc khải cho tôi” là sự thật.

       Hỏi: Chúng ta thật có phúc khi biết được điều này chị Vicka!

       Đáp: Vâng, Đức Mẹ đã nói rằng nếu một người muốn biết Chúa Giêsu thì phải đọc ”Phúc Âm như đã được mạc khải cho tôi” của bà Maria Valtorta. cuốn sách này là sự thật.

       Vào cuối thập niên 1990 Trung tâm xuất bản Valtorta đã nhận được một tấm hình của chị Vicka đang qùy cầu nguyên trên mộ của bà Maria Valtorta trong nhà thờ Đức Mẹ hồn xác lên trời của dòng Các nam tôi tớ của Đức Maria tại Firenze.

       (Nguyệt san Tiếng Vọng của Mẹ Maria Eco di Maria số 124 tháng 12 năm 1995/ tháng giêng năm 1996; Nguyệt san Kitô Chrétiens Magazine số 218, ngày 15-3-2009, tr.10-12)

 17. So sánh với các người được thị kiến khác

        Trong lịch sử dài hơn 2.000 năm của Giáo Hội đã có các mạc khải và các thị kiến tư xảy ra sau ngày Chúa Giêsu Kitô về Trời. Điển hình là trường hợp của thánh Phaolô (2 Cr 12,2-4).

       Các vụ Đức Mẹ hiện ra cũng đã bắt đầu khá sớm. Truyền thống kể lại vụ Đức Mẹ hiện ra với thánh Giacôbê, anh của Tông Đồ Gioan, tại Saragozza (Cesaraugusta), khi thánh nhân đi truyền giáo bên Tây Ban Nha. Và biến cố này đã là nguồn gốc của đền thánh Đức Mẹ Pilar.

       Từ ngày đó đến nay, theo cuốn “Từ điển các vụ hiện ra của Đức Trinh Nữ Maria” do thần học gia René Laurentin và Patrich Sbalchiero biên soạn, đã có 2.400 vụ Đức Mẹ hiện ra, để loan báo các biến cố tương lai như tại Fatima và La Salette, hay để giải thích các sự thật thần học như tại Lộ Đức, hoặc nói chung để khuyến khích kitô hữu nên thánh.

       Vì thế các thị kiến của bà Maria Valtorta không phải là ngoại thường.

      Các thị kiến về các cảnh trong Phúc Âm cũng không phải là điều lẻ loi.

       Có các vị thánh lớn đã được các thị kiến như thánh nữ Hildegard thành Bingen (1098-1179(, thánh nữ Angela di Boemia (+ 1243), thánh nữ Gertrude thành Helfta (1256-1302), thánh nữ Brigida nước Thủy Điển (1302-1373), thánh nữ Terexa thánh Avila (1515-1582), thánh nữ Maria Maddalena de Pazzi (1568-1607), và nhiều vị khác nữa…

       Gần hơn là trường hợp của thánh nữ Faustina Kowalska và Terexa Newmann. Tất cả đều cống hiến cho chúng ta các thị kiến giới hạn về các khía cạnh khác nhau của cuộc đời Chúa Giêsu, cách chung là cuộc Khổ Nạn.

       Trong số các người được thị kiến về toàn cuộc sống của Đức Mẹ hay cuộc đời của Chúa Giêsu có nữ Chân phước Maria Agrea (1602-1665), nữ Chân phước Anna Catharina Emmerich (1774-1824) và bà Maria Valtorta.

  Kết luận

       Tuy chưa được Giáo Quyền thừa nhận là mạc khải, bộ sách ”Phúc Âm như đã được mạc khải cho tôi” là một tác phẩm tuyệt vời cả trên bình diện văn chương. Bạn không bị bắt buộc phải tin, nhưng đàng khác cũng không nên có thành kiến, đặc biệt khi các thành kiến ấy đến từ người khác và được lập đi lập lại một cách máy móc, không được kiểm thực và không có bằng chứng chính xác nào.

       Hãy biết thưởng thức tác phẩm với tâm trí rộng mở, đơn sơ, tự do, thanh thoát và tự lượng định lấy những gì bạn cảm nhận được. Nếu bạn cảm thấy gần Chúa hơn, hiểu biết và yêu mến Chúa nhiều hơn, nhất là sống đức tin-cậy-mến với nhiều ý thức và dấn thân hơn, thì đã đáng công lắm rồi. Mọi sự còn lại chính Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Cha Thánh Giuse sẽ nói cho bạn biết.

       Vì yêu thương chúng ta Thiên Chúa có trăm phương nghìn cách để liên lạc với chúng ta và tự mạc khải cho chúng ta. Tại sao chúng ta lại tìm cách hạn chế quyền năng đó của Thiên Chúa?

  Roma 22-8-2012
Lễ Đức Maria Trinh Vương
Linh Mục Giuse Hoàng Minh Thắng

Download TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI 

Viết bởi Maria Valtorta

Dịch gỉa: Nữ tu Phạm Thị Hùng CMR

Quyển 1-Chuẩn Bị.pdf

http://www.mediafire.com/view/?4bcyq77ze4ai2yo 

Quyển 2_Năm I Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?ea5acw4wttbdudd

Quyển 3-Năm II Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?o6gi6p73sk5lrhd

Quyển 4-Năm II Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?s9akma9mmdzdb26

Quyển 5-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?yrq9nq416v5s4dx

Quyển 6-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?8vl7kzjkskplk1b

Quyển 7-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?apbbvph8ndui8m3

Quyển 8-Chuẩn Bị Cuộc Tử Nạn.pdf

http://www.mediafire.com/view/?kbp3i58kizp5ad1

Quyển 9-Cuộc Tử Nạn.pdf

http://www.mediafire.com/view/?txb433uklyoke1x

Quyển 10-Vinh Quang.pdf

http://www.mediafire.com/view/?oln727ghllo7536

 

by Tháng Tám 31, 2012 Comments are Disabled chưa phân loại, Cuộc đời Chúa Giê-su (Maria Valtorta), Tâm Linh
Thánh Kinh Kitô, bức thư tình Thiên Chúa gửi cho nhân loại

Thánh Kinh Kitô, bức thư tình Thiên Chúa gửi cho nhân loại

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/08/thanh-kinh-kito.jpg

THÁNH KINH KITÔ, CUỐN SÁCH KỂ LẠI CUỘC TÌNH

CỦA THIÊN CHÚA VỚI NHÂN LOẠI

    Trong mục Tìm hiểu Thánh Kinh này, chúng ta sẽ cùng nhau khám phá môi trường địa lý, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và tôn giáo làm nảy sinh ra Thánh Kinh, tiến trình hình thành các tác phẩm, việc truyền tụng ghi chép và dịch thuật, cũng như nội dung các tác phẩm cựu ước và tân ước và một số vấn đề đặc biệt như sự linh hứng.

I. THÁNH KINH KITÔ, MỘT CUỐN SÁCH KỲ LẠ

     1. Thánh Kinh kitô là cuốn sách bán chạy nhất thế giới

     Trong tất cả mọi tác phẩm văn chương trên toàn thế giới Thánh Kinh Kitô là tác phẩm được in ấn, bán và mua nhiều nhất. Trong các năm 1814-1984 đã có tất cả 2,7 tỷ cuốn Thánh Kinh toàn phần hay một phần được xuất bản. Trong 25 năm qua, đặc biệt kể từ khi chế độ cộng sản liên xô và đông âu sụp đổ hồi thập niên 1990, đã có thêm hàng chục triệu ấn bản Thánh Kinh khác được phổ biến trong các nước cựu cộng sản để đáp ứng nhu cầu khát khao Lời Chúa của các tín hữu, từng bị kìm kẹp dưới chế độ cộng sản vô thần đằng đẵng trong suốt 70 năm trời.

     Theo thống kê năm 2009 của Hiệp Hội Thánh Kinh Anh quốc, Liên Hiệp Thánh Kinh Quốc Tế và Hiệp Hội Thánh Kinh Italia, sách Thánh Kinh, toàn bộ hay một phần, đã được dịch ra 2.508 ngôn ngữ khác nhau trên tổng số hơn 6.000 thứ tiếng trên thế giới.

     Bên Phi châu một phần sách Thánh Kinh đã được dịch ra 223 thứ tiếng, trong khi Thánh Kinh Cựu Ước hay Tân Ước đã được dịch ra 335 thứ tiếng. Thánh Kinh toàn thư đã được dịch ra 173 thứ tiếng: tổng cộng là 731 ngôn ngữ khác nhau. Thánh Kinh toàn thư cũng đã được phát hành bằng CD trong 34 ngôn ngữ phi châu.

     Tại Á châu và vùng Thái Bình Dương một phần sách Thánh Kinh đã được dịch ra 354 thứ tiếng, trong khi Thánh Kinh Cựu Ước hay Tân Ước đã được dịch ra 516 thứ tiếng. Thánh Kinh toàn thư đã được dịch ra 182 thứ tiếng: tổng cộng là 1.052 ngôn ngữ. Thánh Kinh toàn thư còn được phát hành bằng CD trong 38 ngôn ngữ á châu và thái bình dương.

     Bên Âu châu và Vùng Trung Đông một phần sách Thánh Kinh đã được dịch ra 109 thứ tiếng, trong khi Thánh Kinh Cựu Ước hay Tân Ước đã được dịch ra 40 thứ tiếng. Thánh Kinh toàn thư đã được dịch ra 61 thứ tiếng: tổng cộng là 210 ngôn ngữ. Thánh Kinh toàn thư cũng được phát hành bằng CD trong 50 ngôn ngữ âu châu và vùng trung đông.

     Tại Mỹ châu một phần sách Thánh Kinh đã được dich ra 148 thứ tiếng. Thánh Kinh Cựu Ước hay Tân Ước được địch ra 322 thứ tiếng. Thánh Kinh toàn thư đươc dịch ra 42 thứ tiếng: tổng cộng là 512 ngôn ngữ. Thánh Kinh toàn thư cũng được phát hành bằng CD trong 10 ngôn ngữ mỹ châu.

     Ngoài ra một phần sách Thánh Kinh cũng được dịch ra 2 thứ tiếng được chế ra, và Thánh Kinh toàn thư được dịch ra 1 thứ tiếng được chế ra: tổng cộng là 3.

     Như thế tổng cộng có 836 thứ tiếng có bản dịch một phần của sách Thánh Kinh, 1.213 thứ tiếng có bản dịch Thánh Kinh Cựu Ước hay Tân Ước, 459 thứ tiếng có bản dịch Thánh Kinh toàn thư: tất cả là 2.508 thứ tiếng. Thế rồi cũng có 132 thứ tiếng có Thánh Kinh toàn thư phát hành bằng CD.

     Liên Hiệp Thánh Kinh Quốc Tế quy tụ 150 Hiệp Hội Thánh Kinh quốc gia; và các tổ chức dịch Thánh Kinh, hằng năm đều cập nhật danh sách, vì Thánh Kinh được liên tục dịch ra các thứ tiếng mới khác.

     Tính trung bình phải mất 12 năm để hoàn thành bản dịch toàn bộ Thánh Kinh trong một thứ tiếng. Mục đích công trình dịch thuật là cho phép các dân tộc trên thế giới tiếp xúc với Lời Chúa và thực thi Lời Chúa mỗi ngày, cũng như đặt nền cho cuộc sống của các Giáo Hội và đức tin của các kitô hữu.

     2. Thánh Kinh là Lời Chúa và là kho tàng giáo lý của Kitô giáo

     Không có gì và không có ai có thể ngăn cản được việc phổ biến và sức lôi cuốn của Thánh Kinh, bởi vì Thánh Kinh chứa đựng Lời Chúa và là kho tàng giáo lý của Kitô giáo. Thánh Kinh là lương thực thiêng liêng hằng ngày của Giáo Hội. Nó là suối nguồn nước hằng sống mà Giáo hội kín múc mỗi ngày và phân phát cho các tín hữu. Vì thế Giáo Hội yêu mến, học hỏi, suy gẫm, đào sâu và khuyến khích việc cộng tác với các Giáo Hội hay cộng đoàn kitô anh em để phiên dịch Thánh Kinh ra các thứ tiếng khác nhau, nhiều chừng nào có thể (MK 10, 12, 21-23. 25). Tất cả mọi kitô hữu, cách riêng các linh mục, phó tế, chủng sinh, tu sĩ nam nữ, các thừa sai và các giáo lý viên cũng như tất cả những ai có nhiệm vụ rao giảng Lời Chúa, đều phải siêng năng đọc, suy gẫm, học hỏi và sống Lời Chúa (MK 25; GH 29… ).

     Đây là lý do giải thích tại sao Thánh Kinh lại có một chỗ quan trọng trong đời sống phụng vụ của Giáo Hội như vậy: trong kinh thần vụ, trong các buổi cử hành Lời Chúa hay bí tích Thánh Thể (GH 6-7, 24, 35, 48, 50, 92; MK 21, 25-26 … ) cũng như trong các bộ môn thần học khác nhau. Thánh Kinh là nền tảng của mọi loại thần học (MK 24; GM 16; LM 16; TG 22).

     3. Thánh Kinh là cuốn sách gối đầu giường của mọi kitô hữu

     Tất cả các lý do kể trên giải thích tại sao Thánh Kinh phải là cuốn cẩm nang, phải là cuốn sách gối đầu giường của mọi kitô hữu. Nhưng rất tiếc thực tế không phải như vậy. Trên bình diện này so sánh với các anh chị em tin lành, tín hữu công giáo ở trong thế yếu kém. Để diễn tả vị trí ”tụt hậu” này của tín hữu công giáo có người nói đùa một cách rất nghiêm chỉnh như sau: ”Giáo Hội công giáo đi tới đâu thì phân phát sách Giáo Luật tới đó, trong khi Giáo Hội tin lành phân phát Thánh Kinh”. Thật thế, theo kết qủa cuộc thăm dò đăng trên tuần san ”Gia đình kitô” số 39 năm 1991 và nguyệt san ”Jesus” số tháng 10 năm 1991, sự hiểu biết Thánh Kinh của tín hữu công giáo Italia rất thấp kém. Tín hữu biết rất ít hay hầu như không biết gì về Thánh Kinh. Nhưng rất tiếc đây cũng là tình trạng chung của tín hữu công giáo toàn thế giới.

     Ngày nay, đứng trước hiện tượng các giáo phái kitô lan tràn, khi phải đối diện với tín đồ các giáo phái, điển hình như giáo phái Giêhôva, tín hữu công giáo sợ hãi. Các tín hữu giáo phái Giêhôva tìm tới gõ cửa từng nhà một, với Thánh Kinh trong tay, để truyền đạo và trích Thánh Kinh ”vanh vách”, mặc dù họ chỉ trích các văn bản thích hợp với quan điểm của họ hay bị họ lèo lái để chứng minh cho giáo lý của họ, tín hữu công giáo ”khớp”, và bất chợt khám phá ra rằng mình hầu như không biết gì về Thánh Kinh là kho tàng nền tảng của giáo lý kitô.

      Dĩ nhiên, Thánh Kinh là Lời Chúa, và mọi người dù tin hay không tin khi dọc vẫn có thể hiểu được nội dung, tùy theo các soi sáng, linh hứng của Thiên Chúa, tùy theo mức độ của việc kết hiệp với Chúa hay sự cởi mở tâm trí hoặc tầm hiểu biết mà từng người nhận được hay có về Thánh Kinh. Nhưng bởi vì Thánh Kinh chứa đựng các sự thật đã được vén mở cho một dân tộc sống trong một bối cảnh địa lý, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và tôn giáo xác định, nên nó cũng mang dấu vết của các yếu tố đó. Bối cảnh đa diện ấy được các học giả kinh thánh gọi bằng một cụm từ tiếng Đức là ”Sitz im Leben”. Từ này đã trở thành quốc tế và thường được để nguyên, vì không có kiểu dịch tương đương nào có khả năng diễn tả tất cả sáu yếu tố kể trên.

      4. Một cuốn sách gây kinh ngạc

     Thánh Kinh, nhất là Thánh Kinh Cựu Ước, là cuốn sách gây kinh ngạc. Tuy không đọc nó người ta cũng biết đó là sách thánh của các tín hữu do thái và kitô, và người ta trông chờ tìm thấy trong đó ”Lời Chúa” trong trạng thái tinh tuyền thánh thiện, như một loại sách giáo lý hay cẩm nang luân lý. Nhưng khi mở ra, người ta tìm thấy các biến cố thường khi không có gì hấp dẫn. Lại có các câu chuyện gây gương mù gương xấu như chuyện vua Đavít phạm tội ngoại tình, chiến tranh, giết người, các bài thơ có nội dung nguyền rủa, báo thù, khó mà cầu nguyện, cho dù được gọi là ”thánh vịnh” đi nữa…

     5. Một thư viện gồm 73 tác phẩm thuộc nhiều loại khác nhau

     Thật ra, tuy là một cuốn sách nhưng Thánh Kinh là một thư viện gồm 73 tác phẩm, 46 tác phẩm cựu ước và 27 tác phẩm tân ước, được sáng tác dọc dài thời gian hơn 1.000 năm, thuộc nhiều văn thể khác nhau, trong nhiều bối cảnh khác nhau và nhắm nhiều mục đích khác nhau.

    6. Câu chuyện tình của một cặp vợ chồng già mừng 50 năm thành hôn

     Để dễ hiểu nội dung và ý nghĩa của Thánh Kinh, chúng ta hãy lấy thí dụ câu chuyện tình của một cặp vợ chồng già mừng kim khánh thành hôn.

      Sau khi khách được mời tới dự tiệc đã dần dà ra về hết, còn lại mình bạn với hai ông bà cụ trong căn nhà vắng lặng. Bên tách trà nóng, cụ ông mới lôi trong hộc bàn ra một cái hộp cũ, bên trong chứa đựng nhiều thứ: các hình kỷ niệm đã ngả sang mầu vàng với nếp gấp nhăn nheo, một ít lá thư, hình gia đình với các con cháu, mấy cảnh đi nghỉ hè hay dạo mát đó đây, các tấm cạc kỷ niệm, vài tấm hình nhầu nát với thời gian vì đã được bỏ vào ví đem theo trong các năm chiến tranh. Ông cụ chậm rãi cầm từng kỷ niệm lên, giải thích và kể cho bạn nghe. Qua lời kể và các giải thích của cụ, những đồ vật vô tri vô giác ấy trở thành các kỷ niệm sống động ghi dấu con đường tình 50 năm của họ. Chúng là các chứng tích diễn tả các vui buồn sướng khổ trong nửa thế kỷ chung sống, kể từ khi họ quyết định thành hôn với nhau, cột buộc cuộc đời vào nhau và sống cho nhau.

      Từ các mảnh vụn kỷ niệm ấy bạn nhận ra cả gia phả gia đình của ông bà cụ. Danh sách các tên gọi tầm thường nhàm chán trở thành niềm hãnh diện tùy thuộc một gia đình và một dòng tộc. Tờ giấy mua nhà, tình cờ còn giữ lại được, không chỉ là một giao kèo mua bán, mà nó diễn tả tất cả giấc mộng của đôi vợ chồng trẻ và bao nhiêu năm vất vả làm việc và dành dụm để có một mái ấm gia đình, một căn nhà cho riêng mình và cho con cái. Thế rồi trong các thư cũ cũng còn có một vài thư trao đổi qua lại thời mới quen nhau và thời đính hôn nữa.

      Ông cụ già cầm lên một tờ giấy và nheo mắt hóm hỉnh nói: ”Đây là bức thư tình đâu tiên của chúng tôi”. Bạn kinh ngạc mở lớn mắt và thắc mắc, vì thấy đó chỉ là một bài toán đại số bên dưới có ghi hàng chữ gì đó. Ông cụ hứng chí giải thích: ”Vâng, đây là bức thư tình đầu tiên của chúng tôi. Chả là hồi đó tôi và nhà tôi học cùng lớp. Một hôm, vì bị đau không đi học được nên bà ấy mới xin cô bạn nhắn với tôi là chép hộ bài tập đại số cho bà ấy. Tôi theo lời chép lại bài tập đại số và viết mấy chữ bên dưới chúc bà ấy mau khỏi bệnh. Thế là từ ngày ấy chúng tôi quen thân nhau, trở thành bạn và yêu nhau, rồi quyết định lấy nhau”.

      Mảnh giấy ấy chỉ là một bài toán đại số, nhưng tình cờ giữ lại được, dưới ánh sáng của cuộc tình dài 50 năm bài toán đại số năm xưa đã thực sự trở thành một lá thư tình, vì nó đã là đầu dây mối nhợ để hai người quen nhau, chơi thân với nhau, yêu nhau, lấy nhau và sánh bước trên con đường tình dài 50 năm, mà hôm nay họ mừng kỷ niệm.

      Có lẽ bạn tưởng đã biết đôi bạn già, nhưng chỉ trong buổi chiều hôm đó bạn mới thực sự khám phá ra ý nghĩa cuộc sống của họ và hiểu biết họ. Tất cả các vật kỷ niệm cũ kỹ, các tấm hình, các mảnh giấy tầm thường không có giá trị ấy bỗng chốc trở thành qúy báu, vô giá. Chúng không phải là các đồ vật vô tri vô giác nữa, nhưng là các chứng tích của một cuộc tình dài 50 năm, được soi sáng và giải thích. Và mỗi một đồ vật khiêm tốn ấy trở thành một câu chuyện, trao ban ý nghĩa cho cuộc tình của hai người tình già đã chung vai sánh bước bên nhau suốt 50 năm trời.

      7. Một cuộc sống trở thành văn bản

     Các đồ vật kỷ niệm nói trên của hai vợ chồng già tự chúng không có gì hay ho hấp dẫn. Nhưng chúng giúp chúng ta bước vào trong cuộc mạo hiểm tình yêu của họ, hiểu biết và chia sẻ con đường tình đời họ. Cũng thế, trong các tác phẩm khác nhau của Thánh Kinh có những điều xem ra tầm thường và vô nghĩa, nhưng chúng giúp khám phá ra cuộc mạo hiểm của một dân tộc có đức tin, và cho phép chúng ta bước vào trong thế giới đức tin đó.

      Trong cuộc sống chúng ta có những biến cố tự chúng không có ý nghĩa gì, nhưng chúng chỉ có ý nghĩa khi được đặt để vào trong lịch sử. Và nếu một biến cố thực sự quan trọng, chúng ta được thúc đẩy suy tư nó trở lại, và khi đó chúng ta khám phá ra ý nghĩa phong phú của nó. Càng tiến tới nó càng trở thành phong phú.

      Như thế, kể lại một biến cố không có nghĩa là viết một bài tường thuật chính xác, hay chụp hình điều đã xảy ra, nhưng là nêu bật ý nghĩa mà nó có đối với chúng ta trong lúc này đây. Sau này, khi kể lại biến cố ấy, chúng ta lại khám phá ra các điều mới mẻ khác.

      8. Chính xác hay là thật

      Đôi khi chúng ta tự hỏi: ”Điều Thánh Kinh nói có thật không? Phép lạ ấy có thật không?”. Trước hết cần phải hiểu thế nào là thật, vì từ này có nhiều ý nghĩa. Chẳng hạn khi chúng ta nói: ”Câu chuyện này thật, cuốn tiểu thuyết này thật, bài thơ này thật”, chúng ta không ám chỉ cùng một điều như nhau. Trong một cuốn tiểu thuyết mọi sự đều được tạo ra, tuy nhiên có thế nói nó là thật, nếu nó diễn tả đúng thực tại của con người: không có gì trong tiểu thuyết là chính xác hay lịch sử cả, nhưng tất tả đều thật.

      Chính xác là điều đã xảy ra trong lịch sử, người ta có thể quay phim hay thu thanh và ghi nhận được với các máy móc. Bức thư tình đầu tiên của hai vợ chồng già sẽ luôn luôn chỉ là một bài toán đại số với lời chúc mau lành bệnh, nhưng nó thật là bức thư tình đầu tiên, và kiểu tôi lập lại lời ông cụ nói với tôi sẽ thật hơn là chính xác. Thánh Kinh có thật không? Có, nhưng trong nghĩa thứ hai này. Trong Thánh Kinh chúng ta sẽ tìm thấy nhiều điều không chính xác, kiểu kể lại các biến cố hay các lời nói sẽ không chính xác, nhưng vẫn thật, bởi vì chúng bao gồm ý nghĩa đã được khám phá ra trong đó.

       Điển hình như câu chuyện các phụ nữ Israel đón tiếp vua Saul và Đavít. Chương 18 sách Samuel I kể lại rằng Đavít đã giết được Gôliát khiến cho quân Philitinh chạy trốn tán loạn và bị người Israel và dân Giuđa truy nã và giết vô số. Khi nhà vua và Đavít trở về, ”phụ nữ từ hết mọi thành của Israel kéo ra, ca hát múa nhảy đón vua Saul với trống con, với tiếng reo mừng và tiếng não bạt. Phụ nữ vui đùa ca hát rằng: Vua Saul hạ được hàng ngàn, ông Đavít hàng vạn”. Vua Saul giận lắm và bắt đầu ghen tức với Đavít (1 Sm 18,6-8).

       Lời ca ấy của phụ nữ Israel ”không diễn tả chính xác” số quân Philitinh bị Đavít hạ sát, nhưng nó ”thật”, vì nói lên cái tài của Đavít, là một tướng trẻ có mưu lược và được Thần Khí Chúa hướng dẫn, nên đánh đâu thắng đó, khiến cho quân Philitinh phải ”khiếp đảm kinh hồn”.

      9. Tin để hiểu

      Thực tại nòng cốt của một biến cố là điều đôi con mắt không thể thấy được: tôi phải đoán ra dựa trên các khía cạnh lịch sử của chính biến cố đó, qua những gì tôi trông thấy. Chẳng hạn tôi trông thấy một đôi nam nữ hôn nhau. Đó là một sự kiện lịch sử, chính xác. Nhưng tôi không thể kết luận gì cả, bởi vì nụ hôn đó chưa chắc đã diễn tả tình yêu của họ đối với nhau. Lý do dễ hiểu, vì cũng có khi người ta bị bắt buộc hôn một người mà họ không yêu. Nếu có ai đó nói với tôi là đôi nam nữ ấy yêu nhau, thì cái hôn ấy có ý nghĩa, nó trở thành dấu chỉ tình yêu của họ.

       ”Nếu có ai nói với tôi… ”, điều này có nghĩa là tôi tin điều người ta nói với tôi. Bởi vì tôi tin người đó, nên tôi có thể hiểu nụ hôn này như cử chỉ của tình yêu. Như vậy, để hiểu cần phải tin, và để tin cần phải hiểu: sự kiện hiểu biết củng cố niềm tin của tôi. Nó giống như một vòng tròn xoáy trôn ốc: người ta xoay theo vòng tròn, nhưng mỗi vòng lại khiến cho tiến tới hay tiến lên cao hơn.

       Đây cũng là điều xảy ra với Thánh Kinh, đối với những người biên soạn nó: họ kể lại các biến cố, và các biến cố ấy có ý nghĩa, bởi vì họ tin. Điều này cũng có giá trị đối với chúng ta là những người đọc Thánh Kinh ngày nay: chúng ta có thể học Thánh Kinh như là các tín hữu, tức những người có đức tin hay như là những người không có đức tin. Khi đọc Thánh Kinh, chúng ta hiểu ý nghĩa các văn bản. Nhưng chúng ta sẽ hiểu chúng một cách khác, nếu chúng ta chia sẻ cùng niềm tin của những người đã viết ra nó, nếu chúng ta cùng họ bước vào trong cùng cuộc tìm kiếm.

      10. Ý nghĩa của một văn bản

       Khi đứng trước một văn bản, đặc biệt là các văn bản cổ xưa, chúng ta thường tự động lý luận như sau: tác giả có một điều gì đó để nói với chúng ta, một ý nghĩa nào đó để thông truyền cho chúng ta; ông đã mặc cho ý nghĩa đó với các lời và nền văn hóa riêng của ông; điều chúng ta phải làm ngày nay là cởi cái áo đó ra với các lời của chúng ta. Nói cách khác, chúng ta nghĩ rằng trong văn bản có một cái ”nhân cứng” cần phải lôi ra ngoài.

       Nhưng các điều này không đơn giản như vậy. Khi nghe đôi vợ chồng già kể lại cuộc tình của họ, dĩ nhiên là tôi tìm cách hiểu những điều họ muốn nói, nhưng khi tiếp nhận chúng, tôi biến đổi chúng. Kể từ buổi chiều lễ kim khánh thánh hôn ấy của họ, tôi đã có một hình ảnh về họ, không giống như họ có về họ và cũng không giống hình ảnh mà một người khác có về họ.

       Cũng thế, khi đọc một văn bản, chúng ta soạn nó lại theo những gì chúng ta là. Đây là điều bình thường: chúng ta tiếp tục thêm vào văn bản đó ý nghĩa mà chúng ta khám phá ra trong đó. Đọc là làm chủ được một văn bản và khiến cho nó nói lên điều gì đó đối với chúng ta ngày nay, điều gì đó làm cho chúng ta sống.

 II. THÁNH KINH LÀ CUỐN SÁCH CỦA CẢ MỘT DÂN TỘC

       Tất cả những gì đã trình bầy cho tới đây cung cấp cho chúng ta vài chỉ dẫn qúy báu liên quan tới Thánh Kinh.

      1. Thánh Kinh là một cuốn sách của tất cả một dân tộc

        Ngoài một số các tác giả được biết đến, có rất nhiều tác giả vô danh. Qua họ cả một dân tộc đã viết ra những gì họ sống, những gì họ đã suy gẫm về lịch sử riêng. Việc suy gẫm qúa khứ đó đã được truyền lại bằng miệng từ lâu đời trước khi được viết thành văn bản. Các truyền thống này đã được truyền lại từ đời cha sang đời con bên trong các chi tộc Israel, và bắt đầu dưới thời vua Salomon chúng được biên soạn thành các văn bản.

      2. Thánh Kinh là một cuốn sách gắn liền với lịch sử

       Thánh Kinh không phải là một cuốn sách đã được biên soạn ra một lần rồi thôi; trái lại, nó đã được biên soạn ra dọc dài trong hơn 900 năm lịch sử của dân tộc Israel. Các thế hệ đến sau đã thêm vào các văn bản mới. Thường khi họ đã sửa chữa lại các văn bản của các thời kỳ trước để đáp ứng các tình trạng sống lúc đó. Thánh Kinh ghi chép lại các biến cố đáng lưu ý nhất của dân Israel, các chiến thắng, các thất bại, các vui buồn sướng khổ của họ.

     3. Thánh Kinh là một cuốn sách suy tư về lịch sử cuộc sống

      Trong các thời điểm định đoạt dân Israel đọc lại kinh nghiệm qúa khứ của mình và khám phá ra sự phong phú của gia tài do các thế hệ cha ông truyền lại. Họ đối chiếu đức tin và các xác tín của họ đối với các điều kiện sống mới và với các nền văn hóa của các dân tộc khác. Gia tài qúa khứ, được suy tư và và nghiền gẫm, trao ban cho họ khả năng chấp nhận hiện tại.

      Các sách của Thánh Kinh nhiều, vì việc đọc lịch sử đã không bao giờ kết thúc một lần cho luôn mãi. Có các tình hình mới bắt buộc tín hữu phải trở về qúa khứ một cách hoàn toàn khác, và có dịp suy tư trở lại ý nghĩa cuộc sống và cái chết cũng như nhiều vấn đề mà con người không ngớt đặt ra cho chính mình. Chẳng hạn, cuộc giải phóng khỏi kiếp sống nộ lệ bên Ai Cập không được kể lại theo cùng một cách thức: khi dân Israel định cư trong một nước mãnh mẽ và tự do, như dưới thời vua Đavít và vua Salomon, thì khác với khi họ sống kiếp lưu đầy, sau khi bị vua Nabucodonosor bóc lột mọi sự và đầy sang Babilonia, cũng như trong thời ngôn sứ Edekiel.

      Các sách cũng khác nhau, vì được biên soạn trong nhiều môi trường khác nhau: các tư tế không luôn luôn giải thích các biến cố như giáo dân hay các ngôn sứ; người giầu cũng không nhìn sự việc với con mắt của người nghèo. Kết qủa là trong Thánh Kinh có thể có các giải thích khác nhau liên quan tới cùng một biến cố, trong các tác phẩm được xuất bản trong cùng một giai đoạn lịch sử. Sự khác biệt này là một trong các khó khăn của sách Thánh Kinh, nhưng đàng khác cũng diễn tả sự phong phú của nó. Thật thế, vì Thánh Kinh là tác phẩm của cả một dân tộc có nhiều gương mặt và phản ánh một lịch sử dài và đầy giao động.

      4. Thánh Kinh là một cuốn sách đọc lại lịch sử và cuộc sống của dân Israel dưới ánh sáng đức tin

       Dân Israel đã luôn luôn xác tín rằng Thiên Chúa hiện diện và hoạt động trong lịch sử của họ. Và với sự hiện diện tích cực đó Thiên Chúa khiến cho con người biết Ngài. Dân Israel đã nhìn thấy trong các biến cố lịch sử của mình các dấu chỉ chính xác sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa đối với việc giải phóng họ. Và từ từ họ ý thức rằng Thiên Chúa đã có một chương trình đối với con người, một chương trình nhằm giải phóng, ký kết giao ước và làm bạn với con người.

       Đức tin của dân Israel được xây dựng từ đó, một đức tin được lãnh nhân như món qùa trong nõi tủy của một kinh nghiệm sống tập thể và riêng tư với Thiên Chúa của lịch sử và của vũ trụ.

      Đối với dân Chúa ngày nay, việc đọc Thánh Kinh là một lời mời gọi nhận biết Thiên Chúa hoạt động trong thế giới và luôn viết ra lịch sử của sự can thiệp ấy, mà không ngừng hoạt động để xây dựng một thế giới đáp ửng chương trình của Thiên Chúa đối với con người.

Linh Tiến Khải


by Tháng Tám 28, 2012 Comments are Disabled Thánh Kinh Tân Ước
Mẹ MARIA trong Thánh Kinh

Mẹ MARIA trong Thánh Kinh

 

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/08/Raffaello-holy-family-of-francis.jpg

     Lịch sử cứu độ là lịch sử lời Thiên Chúa mời gọi từng người trong chúng ta sống linh đạo “Trái tim yêu”, noi gương Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Cha Thánh Giuse dấn thân cộng tác vào chương trình tình yêu cứu rỗi của Thiên Chúa Ba Ngôi. Ðể được như thế chúng ta phải học sống con đường thơ ấu thiêng liêng, trở nên một Giêsu Bé Thơ, trở nên đồng hình dạng với Chúa Giêsu, có được con tim, đôi mắt và các tâm tình của Chúa, nghĩa là đạt tuyệt đỉnh ơn gọi đời kitô hữu là nghĩa tử của Thiên Chúa và là em của Anh Cả Giêsu trong đại gia đình của Thiên Chúa. Trong dấn thân đó không ai có thể giúp chúng ta một cách hữu hiệu hơn Mẹ Maria. Vì thế phải tìm hiểu và khám phá ra gương mặt và cuộc đời của Mẹ.

       Trước hết với đề tài Mẹ Maria trong Thánh Kinh. Trong phần này chúng ta sẽ duyệt qua tất cả các văn bản Thánh Kinh Tân Ước liên quan tới Đức Maria, Mẹ Chúa Cứu Thế, theo thứ tự thời gian, đại để như đã được minh xác trong khoa phê bình kinh thánh ngày nay. Nói là đại để, vì trong vài thập niên gần đây nhiều nhà chú giải, điển hình như Jean Carmignac cho rằng Phúc Âm thánh Maccô đã là tài liệu cổ xưa nhất của Tân Ước, vì đã được viết ra khoảng năm 43 sau công nguyên. Ở đây, để tránh phải trình bày các tranh luận dài dòng, chúng ta theo lập trường cổ điển đã được đa số các học giả kinh thánh công nhận. Các văn bản đó là: thư thánh Phaolô gửi tín hữu Galát khoảng năm 49 hay giữa các năm 53-57 sau công nguyên; Phúc Âm thánh Maccô được biên soạn ra khoảng năm 64; Phúc Âm thánh Mátthêu được viết ra khoảng giữa các năm 70-80; Phúc âm thánh Luca và sách Công Vụ các Tông Đồ được biên soạn vào khoảng năm 70; Phúc Âm thánh Gioan được viết giữa các năm 90-100; và sau cùng là chương 12 sách Khải Huyền cũng thuộc thời gian từ các năm 90 tới 100 sau công nguyên. Dĩ nhiên, các kết qủa phân tích, cho dù có viễn tượng canh tân, cũng chỉ có giá trị của giả thuyết nghiên cứu, theo các ý kiến phổ thông nhất cho tới nay, trong khi chờ đợi những lộ trình nghiên cứu đào sâu hữu hiệu hơn.

        Khi được trình bày theo thứ tự thời gian, các chứng từ trong Thánh Kinh Tân Ước liên quan tới Đức Maria, có các lợi điểm của chúng. Nghĩa là chúng cho phép chúng ta thấy các tác giả Tân Ước được linh ứng đã ý thức về con người và vai trò của Đức Maria trong toàn chương trình cứu độ như thế nào và theo tiến triển nào: trước hết trong các hình ảnh diễn tả trước của Thánh Kinh Cựu Ước, rồi trong sứ mệnh làm mẹ đối với Chúa Kitô và Giáo Hội. Mỗi câu, mỗi đoạn của văn bản kinh thánh sẽ được duyệt xét trong bối cảnh gần và xa của Thánh Kinh, cũng như qua các tài liệu ngoài kinh thánh, đặc biệt là qua các tài liệu của Do thái giáo cổ xưa, giúp minh giải ý nghĩa tinh tuyền của các tác phẩm kinh thánh. Ngoài ra chúng ta cũng sẽ chú ý đến các kết qủa đáng kể nhất của khoa chú giải kinh thánh ngày nay.

        Văn bản Tân Ước đầu tiên nhắc tới Đức Maria là thư thánh Phaolô gửi tín hữu Galát chương 4 câu 4. Đề cập đến chức làm con Thiên Chúa của các tín hữu, thánh Phaolô viết: ”Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: ”Abba, Cha ơi!”. Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa” (Gl 4,4-7).

        Theo một số học giả thánh Phaolo đã viết bức thư này sau năm 49. Đây là lập trường của thuyết gọi là ”miền nam Galazia” theo đó các giáo đoàn vùng Galazia gồm giáo đoàn Antiokia vùng Pisidia, Iconio, Listra và Derbe, tức các giáo đoàn đã do thánh Phaolô thành lập trong chuyến truyền giáo dầu tiên, như miêu tả trong sách Công Vụ các Tông Đồ chương 13 câu 14 đến chương 14 câu 23. Các giáo đoàn này được thánh nhân viếng thăm trong chuyến đi truyền giáo thứ hai, được sách Công Vu nhắc tới trong chương 15 câu 30 và chương 16 câu 1. Nhiều học giả theo thuyết ”miền bắc Galazia” cho rằng thánh Phaolô đã viết bức thư này giữa các năm 53-54 hay 56-57, cho các giáo đoàn Ancira, Tavium và Pessinunte, do thánh nhân thành lập trong chuyến truyền giáo thứ hai, và được ngài viếng thăm trong chuyến truyền giáo thứ ba, như viết trong sách Công Vụ chương 16 câu 6 và chương 18 câu 23. Tuy không biết chắc chắn thư đã được viết khi nào, văn bản thư gửi tín hữu Galát là một trong những chứng tá cổ xưa nhất của Thánh Kinh Tân Ước gián tiếp nói tới Đức Maria.

        Việc nhắc tới Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, trong chương 4 câu 4 thư gửi tín hữu Galát chỉ có tính cách gián tiếp, như thể tình cờ và trốn chạy, trong bối cảnh của một văn bản có đề tài chính là biến cố Con Thiên Chúa nhập thể làm người. Thánh Phaolô khẳng định: “Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật… ”. Thánh nhân muốn dậy điều gì với kiểu diễn tả này?

        Ngôn ngữ của thánh Phaolô trình bầy kiểu Thiên Chúa muốn dùng để đến gặp gỡ loài người. Để cứu vớt nhân loại và khiến cho chúng ta trở thành con cái của Ngài một cách tràn đầy, ngay cả sau kinh nghiệm thất bại của tội lỗi, Thiên Chúa đã xuống thế và bước vào lịch sử loài người. Ngài lựa chon một dân tộc là dân Israel, giáo dục họ, nói với họ qua các ngôn sứ là các phát ngôn viên của Ngài ”trong nhiều giai đoạn và bằng nhiều cách thế” (Dt 1,1). Như vậy, Thiên Chúa đã bước vào sống giữa lịch sử loài người với mọi hệ lụy của nó trong khung cảnh địa lý, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và tôn giáo của quốc gia và quốc tế trong vùngTrung Đông Cổ ngày xưa. Nếu ơn cứu độ đã được Thiên Chúa thực hiện trong giòng lịch sử như thế, thì thật là tự nhiên, khi nói tới các tiết nhịp thời gian trong lịch sử nhân loại như thế kỷ, năm, tháng, ngày, gìơ vv…

         Khi Thiên Chúa Cha gửi Con Ngài xuống thế, các thời gian trong chương trình của Thiên Chúa đạt sự ”thành toàn viên mãn” của chúng. Đã tới giai đoạn định đoạt, đã tới kỳ hạn. Chúa Kitô là ”omega”, là mẫu tự cuối cùng, là điểm chót hết. Nơi con người của Ngài, trong những gì Ngài nói và làm ”trong những ngày của thịt xác Ngài”, tức khi còn sống kiếp phàm nhân như viết trong thư gửi tín hữu Do thái chương 5 câu 7, chúng ta có mùa chín tới của sự cứu rỗi Thiên Chúa Cha đã muốn trao ban cho chúng ta. Từ tuổi thơ ấu dân Israel và nhân loại bước vào tuổi trưởng thành. Giờ đây chúng ta thực sự là con cái Thiên Chúa. Đó là điều thánh Phaolô muốn khẳng định trong chương 4 câu 1 tới câu 7 thư gửi tín hữu Galát. Đức Maria được đặt trong chính các điểm tột đỉnh đó của chương trình cứu độ. Qua chức là mẹ của Đức Maria, Con của Thiên Chúa Cha, hiện hữu từ trước muôn đời, bén rễ trong nhánh nhân loại. Đức Maria là người ”đàn bà” đã trao ban cho Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa thịt xác và máu huyết của loài người chúng ta, như viết trong thư gửi tín hữu Do thái chương 2 câu 14: ” Như thế, vì con cái thì đều chung một huyết nhục, nên Đức Giêsu đã cùng mang lấy huyết nhục đó”. Nhưng văn bản thư gửi tín hữu Do thái tóm tắt cả công trình cứu chuộc của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể làm người, sinh ra bởi Đức Maria, người đàn bà được thánh Phaolô nhắc tới trong thư gửi tín hữu Galát. Chương 2 thư gửi tín hữu Do thái viết tiếp: ” Như vậy, nhờ cái chết của Người, Người đã tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra cái chết, tức là ma qủy, và đã giải thoát những ai vì sợ chết mà suốt đời sống trong tình trạng nô lệ. Vì những kẻ được Người giúp đỡ không phải là các thiên thần, mà là con cháu Abraham. Bởi thế, Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một vị thượng tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân. Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách” (Dt 2,14-18).

        Qua đó có thể nói rằng văn bản chương 4 câu 4 thư thánh Phaolô gửi tín hữu Galát mới chỉ là mầm giống manh nha của giáo lý liên quan tới Đức Maria và vai trò của Mẹ trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Giáo lý này sẽ được khai triển bởi các văn bản khác trong Thánh Kinh Tân Ước. Tuy nhiên chứng tá của thánh Phaolô vô cùng qúy báu. Cho dù đơn sơ, chứng tá đó của vị tông đồ dân ngoại tuyên bố rằng con người của Đức Maria gắn liền với chương trình cứu độ của Thiên Chúa một cách mật thiết và sinh động. ”Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: ”Abba, Cha ơi!”. Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa” (Gl 4,4-7).

        Như vậy, để nhập thể làm người Đức Giêsu Kitô đã cần có một người mẹ, để trở thành Anh Cả trong gia đình nhân loại mới, một nhân loại được cứu chuộc trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha, đồng thừa kế với Đức Giêsu Kitô, và cũng được trở thành con của Mẹ Maria, người ”đàn bà” đã sinh ra Chúa Cứu Thế.

 TMH  01
Linh Tiến Khải


by Tháng Tám 27, 2012 Comments are Disabled Thánh Mẫu học
Giới thiệu mục THÁNH KINH

Giới thiệu mục THÁNH KINH

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/08/Cuon-Kinh-Thanh-DoThai.jpg

       Tất cả các bài Thánh Kinh Cựu Ước và Tân Ước trong mục này đã được phát trong mục ”Tìm Hiểu Kinh Thánh” của chương trình Việt Ngữ đài phát thanh Chân Lý Á châu (Veritas Manila) từ năm 1983, và trong mục ”Thần Học Kinh Thánh” của chương trình Việt Ngữ đài phát thanh Vaticăng từ năm 1997, nhân ba năm chuẩn bị Năm Thánh 2000, cũng như trong một vài Nguyệt San công giáo.

       Chúng bao gồm nhiều đề tài khác nhau, liên quan tới các tác phẩm Thánh Kinh Cựu Ước và Tân Ước, đặc biệt là phần chú giải các thư của thánh Phaolô. Chúng cũng gồm các bài trình bầy khung cảnh địa lý, lịch sử, khảo cổ của đất Palestina và vùng Trung Đông Cổ.

       Hy vọng mục Thánh Kinh này giúp các bạn độc giả say mê đọc Thánh Kinh, để hiểu biết, yêu mến, sống và thực hành Lời Chúa một cách sốt sắng, hăng say, xác tín và sâu đậm hơn.

       Cùng với việc đọc lại và học hiểu các Tài Liệu của Công Đồng Chung Vaticăng II đây là nỗ lực sống Năm Đức Tin 2012 một cách cụ thể và nhiều dấn thân hơn.

       Roma 26-8-2012
       Linh Mục Giuse Linh Tiến Khải

       Nguyên giáo sư Thánh Kinh  Học viện “Regina Mundi” trực thuộc Đại Học Giáo Hoàng Gregoriana,
Học viện quốc tế giấo lý viên truyền giáo “Mater Ecclesiae”,
và Phân khoa Truyền Giáo Đại Học Giáo Hoàng Urbaniana Roma (1991-2011)

by Tháng Tám 26, 2012 Comments are Disabled Thánh Kinh Cựu Ước, Thánh Kinh Tân Ước
Valtorta 2

Valtorta 2

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/08/TIN-MUNG-nhu-da-duoc-ven-mo-cho-Toi.jpg

II. Trường hợp tác phẩm ”Bài thơ của Con Người – Thiên Chúa”, hay ”Tin Mừng như đã được vén mở cho tôi” của bà Maria Valtorta”

          Trường hợp tác phẩm của bà Maria Valtorta ”Bài thơ của Con Người-Thiên Chúa” được dịch là ”Tin Mừng như đã được vén mở cho tôi”, bị cấm đọc và phổ biến do lệnh của Thánh Văn Phòng (San’ Ufficio: ngày nay là Bộ Giáo Lý Đức Tin) ký ngày 16 tháng 12 năm 1959; nhưng lệnh cấm này bị bãi bỏ ngày 14 tháng 6 năm 1966.

          Maria Valtorta sinh ngày 14 tháng 3 năm 1897 tại Caserta mạn bắc Napoli và qua đời ngày 12 tháng 10 năm 1961, tại Viareggio, hưởng thọ 64 tuổi. Năm 1920 khi cùng mẹ đi dạo phố Firenze, miền Trung Italia, Maria bị một thanh niên du đãng đánh vào lưng bằng một thanh sắt, phải nằm bất động trong nhà thương ba tháng và phải dưỡng sức hai năm. Kể từ ngày mùng 1 tháng 4 năm 1934 Maria Valtorta phải thường xuyên nằm trên giường. Chính trong tình trạng này Maria nhận được các thị kiến và mạc khải của Chúa Giêsu từ năm 1943 tới 1947 và ít hơn trong năm 1953, và đã tả lại trong 122 cuốn vở dài 15.000 trang. Mặc dù phải nằm trên giường và chịu nhiều đau đớn, nhưng chị đã viết lại một mạch những gì đã thấy đã nghe vào bất cứ giờ nào trong ngày. Hai cuốn sách duy nhất chị có thể tra cứu là Thánh Kinh và Giáo Lý của thánh Pio X.

          Ấn bản tiếng Ý năm 1986 gồm 10 cuốn dầy 5.421 trang chia thành 714 chương. Cuốn I kể lại cuộc đời thơ cấu của Đức Maria và Chúa Giêsu. Các cuốn II-VIII trình thuật ba năm sống công khai của Chúa Giêsu. Cuốn IX kể lại cuộc Khổ Nạn và cuốn X miêu tả các thời gian đầu của Giáo Hội từ biến cố Chúa Phục Sinh cho tới khi Đức Maria hồn xác lên trời.

      1. Lịch sử cuộc tranh luận liên quan tới tác phẩm gồm 4 giai đoạn.

          1) Giai đoạn một: các năm 1944-1959

           Năm 1944, tuy tác phẩm chưa hoàn tất, nhưng Linh Mục Romualdo Migliorini, cha giải tội của Maria Valtorta, thuộc dòng các ”Tôi tớ Đức Maria” bắt đầu đánh máy một số các trình thuật, phân phát và nhấn mạnh chúng được mạc khải, chống lại ý muốn của Maria Valtorta.

          Năm 1946 các bề trên chuyển cha Migliorini từ Viareggio về Roma và xin cha thôi phổ biến các văn bản ấy. Tại Roma cha gặp một trong các anh em cùng dòng là cha Corrado Berti, giáo sư Tín lý và Thần học bí tích tại Phân khoa giáo hoàng thần học của Học Viện Marianum. Cha chia sẻ xác tín của mình và hai vị tìm cách phố biến tác phẩm. Đức Ông Alfonso Carinci, thư ký Bộ các Nghi thức thánh (nay là Bộ Phong thánh) trong các năm 1945-1960 nhận xét về tác phẩm như sau: ”Không có gì trái với các Phúc Âm. Trái lại, tác phẩm này là một bổ túc tuyệt diệu cho Phúc Âm và góp phần vào việc hiểu biết tốt hơn ý nghĩa của nó”.

           Năm 1947 theo lời khuyên của Đức Ông Carinci và Linh Mục Agostino Bea, dòng Tên, Giám đốc Học viên Thánh Kinh Roma, cha giải tội của Đức Giáo Hoàng Pio XII, sau này sẽ trở thành Hồng Y, hai cha Migliorini và Berti đã gửi lên Đức Giáo Hoàng mười cuốn đánh máy của tác phẩm. Đức Pio XII biết chuyện này.

           Ngày 26 tháng 2 năm 1948 Đức Pio XII tiếp kiến hai cha Migliorini và Berti cùng với cha Andrew Cecchin, bề trên của hai vị. Đức Thánh Cha cho biết ngài chấp thuận tác phẩm và khuyên nên công bố trọn vẹn, kể cả các lời tuyên bố rõ ràng đề cập tới các ”thị kiến” và ”đọc cho viết”, nhưng ngài không chấp thuận lời tựa coi đây là một hiện tượng siêu nhiên. Theo lời khuyên của Đức Thánh Cha, bất cứ giải thích nào phải để cho người đọc. Đức Pio XII nói: ”Các cha hãy công bố tác phẩm như nó là. Không có lý do đưa ra một ý kiến về nguồn gốc của nó, ngoại thường hay không. Những người đọc sẽ hiểu”.

          40 năm sau Cha Cecchin sẽ xác nhận lời nói trên đây của Đức Pio XII, được các cha kể lại cho cha Peter Mary Rookey, thuộc tỉnh dòng Chicago. Cha Cecchin cũng cho biết Đức Pio XII xin các cha tìm một Giám Mục để xin phép in ấn. Tất cả các chứng từ này của các cha hiện được lưu giữ trong nhà thờ Truyền Tin của dòng ở Firenze, nơi có mộ của bà Maria Valtorta.

           Năm 1949 yên trí về câu trả lời của Đức Pio XII, hai cha Migliorini và Berti tìm một nhà xuất bản để lo việc in ấn. Sau một thời gian không thành công, hai cha liên lạc với nhà in đa ngữ Vaticăng. Giới chức phụ trách chấp thuận, nhưng phải có phép của Thánh Văn Phòng, ngày nay là Bộ Giáo Lý Đức Tin. Thánh Văn Phòng giao việc này cho Đức Ông Giovanni Pepe và cha Girolamo Berruti, dòng Đaminh. Nhưng việc in ấn bị chặn lại mà không có lời giải thích nào. Không được quyền nói, cha Berti phải ký vào sắc lệnh của Thánh Văn Phóòng cấm công bố tác phẩm và phải giao nộp bản chính. Nhưng cha đã chỉ giao nộp bản chụp.   Năm 1950 tin tưởng nơi lời của Đức Pio XII Maria Valtorta ký giao kèo với hiệp hội xuất bản của ông Michele Pisani dell’isola del Liri. Ông Emilio con của ông Michele, là người có bản quyền các tác phẩm của Maria Valtorta, dấn thân trong việc in ấn và phổ biến tác phẩm. Đức Cha Fontevecchia, Giám Muc địa phương, không có can đảm đọc bản thảo đánh máy dài 4.000 trang nộp để xin phép in. Nhưng Đức Cha đánh giá cao tác phẩm, và sau này khi bị mù ngài nhờ người khác đọc cho ngài nghe.

          Năm 1953 cha Romualdo Migliorini qua đời.

          Năm 1956 theo ý muốn của Maria Valtorta 4 cuốn đầu tiên của tác phẩm được xuất bản vô danh với tựa đề ”Bài thơ của Con Người Thiên Chúa”.

          Ngày mùng 9 tháng 10 năm 1958 Đức Pio XII qua đời. Ngày 28 tháng 10 Đức Gioan XXIII được bầu làm Giáo Hoàng.

          2) Giai đoạn hai: các năm 1959-1966

           Năm 1959 cuốn cuối cùng trong 4 cuốn được công bố. Ngày 16 tháng 12 sắc lệnh cấm phổ biến tác phẩm của Maria Valtorta được ký.

           Ngày mùng 5 tháng 2 năm 1960 Đức Ông Alfonso Carinci qua đời. Ngày hôm sau báo Quan Sát Viên Roma cho đăng sắc lệnh cấm và bình luận sắc lệnh đó với một bài viết vô danh tựa đề ”Một cuộc đời của Đức Giêsu bị tiểu thuyết hóa một cách vụng về”.

           Ngày 12 tháng 10 năm 1961 Maria Valtorta tạ thế. Ngày mùng 1 tháng 12 báo Quan Sát Viên Roma đăng một bài viết kéo dài lệnh cấm ấn bản thứ nhất đối với ấn bản thứ hai của tác phẩm gồm 10 cuốn. Trong cùng tháng cha Berti được Thánh Văn Phòng triệu vời. Trước bầu khí cởi mở hơn của Thánh Văn Phòng, cha kể lại ý kiến của Đức Pio XII đối với tác phẩm hồi năm 1948. Cả ba vị cố vấn của Thánh Bộ là Đức Ông Ugo Lattanzi và hai linh mục Bea và Rocchini đều có lập trường thuận lợi đối với tác phẩm.

           Tháng hai năm 1962 cha Berti trở lại Thánh Bộ bốn lần với một bài tường trình và vài tài liệu do Thánh Bộ đòi hỏi. Cha Marco Giraudo, dòng Đaminh, phó ủy viên Thánh Bộ cho phép miệng: ”Cha hoàn toàn có sự chấp thuận của chúng tôi để tiếp tục công bố ấn bản thứ hai của tác phẩm ”Bài thơ của Con Người Thiên Chúa” của Maria Valtorta. Chúng ta sẽ xem tác phẩm được đón nhận như thế nào”.

           Ngày mùng 3 tháng 6 năm 1963 Đức Gioan XXIII qua đời. Ngày 21 tháng 6 Đức Phaolô VI được bầu làm Giáo Hoàng. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho cha Berti, Đức ông Macchi, bí thư của Đức tân Giáo Hoàng, xác nhận rằng tác phẩm của bà Maria Valtorta không bị cấm.

          3) Giai đoạn ba: các năm 1966-1992

           Ngày 14 tháng 6 năm 1966 lệnh cấm bị hủy bỏ. Tiếp theo tông thư ”Integrae Servandae” định nghĩa vai trò của Bộ Giáo Lý Đức Tin (tên cũ là Thánh Văn Phòng) do Đức Phaolô VI công bố ngày mùng 7 tháng 12 năm 1965, Đức Hồng Y Alfredo Ottaviani, quyền Tổng trưởng Bộ, công bố sắc lệnh hủy bỏ lệnh cấm và việc kiểm duyệt. Sắc lệnh cho biết lệnh cấm vẫn có giá trị luân lý, nhưng ”không còn có sức mạnh của luật giáo hội với các kiểm duyệt liên hệ. Tuy nhiên, Giáo Hội tin tưởng nơi lương tâm trưởng thành của các tín hữu, nhất là của các tác giả, các nhà xuất bản công giáo và của những ai đặc trách việc giáo dục giới trẻ. Giáo Hội đặt để hy vọng vững vàng vào sự lo lắng tỉnh thức của các Giám Mục và các Hội Đồng Giám Mục, có quyền và nhiệm vụ xem xét cũng như phòng ngừa việc công bố các sách có hại, lưu ý và cảnh cáo các tác giả trong trường hợp xảy ra”.

            Ngày 17 tháng giêng năm 1974 Đức Ông Macchi, thư ký riêng của Đức Thánh Cha, gửi thư cho cha Gabriele Roschini, giáo sư Đại học giáo hoàng Laterano, cố vấn Tòa Thánh, để chuyển đến cha các lời chúc mừng của Đức Phaolô VI vì công việc thuận lợi cởi mở của cha đối với tác phẩm của bà Maria Valtorta. Cha Roschini là người thành lập Phân khoa giáo hoàng thần học Marianum.

           Ngày 19 tháng 3 năm 1975 Bộ Giáo Lý Đức Tin công bố sắc lệnh mới liên quan tới sự tỉnh thức của các Chủ Chăn của Giáo Hội đối với các sách đạo (Decretum de Ecclesiae pastorum vigilantia circa libros), và giao cho các Hội Đồng Giám Mục quốc gia hay vùng miền quyền cho phép in ấn các bản dịch Thánh Kinh, các sách phụng vụ, các sách giáo lý và các sách giáo huấn, bổn phận thận trọng của các linh mục và các giáo dân, việc thành lập các ủy ban chuyên môn để cho ý kiến chấp thuận. Tác phẩm của bà Maria Valtorta không vào trong số hạn hẹp này, nhưng không loại bỏ sự thận trọng mục vụ.

           Ngày mùng 8 tháng 12 năm 1978 cha Corrado Berti ký bản thề chứng nhận thời biểu thứ tự các biến cố, kể cả việc hủy bỏ lệnh cấm bằng miệng năm 1961 và sự xác nhận bỏ lệnh cấm năm 1963.

           Năm 1984 mở án phong Chân phước cho cha Gabriele Allegra, dòng Phanxicô, thừa sai và là chuyên viên chú giải kinh thánh. Tờ thông tin Valtorta bắt đầu công bố các ghi chép, các tác phẩm và các thư từ cha trao đổi từ năm 1965 với cha Margiotti, một linh mục cùng dòng, liên quan tới bà Maria Valtorta, mà cha Allegra rất ngưỡng mộ. Cha Allegra đã được Đức Gioan Phaolô II phong Chân phước ngày mùng 7 tháng 8 năm 1995.

           Ngày 31 tháng giêng năm 1985 trong một bức thư gửi Đức Hồng Y Giuseppe Siri, Tổng Giám Mục Genova, Đức Hồng Y Jospeh Ratzinger, Tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin xin Đức Hồng Y Siri trả lời một linh mục thuộc giáo phận Genova hỏi về lập trường của Giáo Hội đối với các tác phẩm của bà Maria Valtorta. Đức Hồng Y Ratzinger đã gửi cho Đức Hồng Y Siri tất cả các tài liệu chính thức của hồ sơ và để tùy ý Đức Hồng Y Siri định liệu. Riêng về phía mình, Đức Hồng Y Ratzinger cho rằng việc phổ biến các tác phẩm này là không thích hợp, không phải vì chúng chứa đựng các sai lầm, nhưng vì ảnh hưởng có thể có đối với các tâm hồn không được chuẩn bị.

           4) Giai đoạn bốn: từ năm 1992 đến nay

          Năm 1992 trước sự hồi sinh của việc chú ý tới tác phẩm của bà Maria Valtorta, Đức Hồng Y Ratzinger xin Đức Tổng Giám Mục Dionigi Tettamanzi, Tổng thư ký Hội Đồng Giám Mục Italia, trực tiếp liên lạc với nhà xuất bản để trong các lần tái bản trong lương lai phải nói rõ là các ”thị kiến” và các ”đọc cho viết” được nói tới trong tác phẩm chỉ là các hình thái văn chương thuần túy được tác giả dùng để kể lai cuộc đời Chúa Giêsu theo cách thức của mình. Chúng không thể được coi như là có nguồn gốc siêu nhiên”.

            Ngày 11 tháng 10 năm 1992 sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo do một ủy ban soạn thảo và do Đức Hồng Y Ratzinger làm chủ tịch, được Đức Gioan Phaolo II công bố. Trong các số 66 và 67 sách Giáo Lý đưa ra luật liên quan tới các mạc khải tư và khẳng định rằng cả khi được Giáo Hội thừa nhận, chúng không được coi như là một bổ túc hay cải tiến Mạc Khải duy nhất, mà chỉ như một trợ giúp: ”Được Huấn Quyền của Giáo Hội hướng dẫn, ý thức của các tín hữu biết phân biệt và tiếp nhận những gì trong các mạc khải này làm thành một lời mời gọi của Chúa Kitô”.

          Năm 1994 nhà xuất bản cho in tác phẩm ”Bài thơ của Con Người Thiên Chúa” dưới tựa đề ban đầu ”Tin Mừng như đã được mạc khải cho tôi” với tên của tác giả Maria Valtorta, mà không đề cập tới nguồn gốc siêu nhiên. Trong Bản thông tin Vatorta năm 1994 nhà xuất bản đã giải thích lý do tại sao lấy lại tựa đề ban đầu của tác phẩm và việc bình thường hóa các liên lạc với giáo quyền.

      2. Các tài liệu tố cáo phê bình hời hợt

          1) Bài bình luận vô danh trên báo Quan Sát Viên Roma

           Ngày mùng 6 tháng giêng năm 1960 báo Quan Sát Viên Roma, cơ quan ngôn luận bán chính thức của Tòa Thánh Vaticăng, đăng một bài viết vô danh bình luận sắc lệnh liệt kê tác phẩm ”Bài thơ của Con Người Thiên Chúa” vào các sách không được đọc, do Thánh Văn Phòng ký ngày 16 tháng 12 năm 1959. Bài viết cho rằng tác phẩm chỉ là ”một cuộc đời Đức Giêsu được tiểu thuyết hóa một cách vụng về” gây nguy hiểm thiêng liêng cho người đọc. Nó đã được in mà không có phép giáo quyền như số 1385 của Giáo Luật đòi buộc. Tiếp đến là một số nhân xét sơ sài về gương mặt của Đức Giêsu, Đức Maria, cũng như nội dung và cách hành văn, và đi đến kết luận là ”tuy có các nhân vật nổi tiếng đã ủng hộ việc công bố”, sự kiện Thánh Bộ công khai lên án là thích hợp, vì đã không vâng lệnh cấm in ấn và phố biến tác phẩm.

            2) Một bài bằng tiếng Anh của Linh Mục Mitch Pacwa, người Mỹ, viết năm 1994 tố cáo tác phẩm có các sai lạc thần học bị nghi là ”lạc giáo”.

           3) Một bài viết của Linh Mục Alain Bandelier đăng trên báo ”Gia Đình Kitô” (Famiglia cristiana) số 1459 ngày 31-12-2005.

           Cả ba tài liệu đều tố cáo các ”sai lầm thần học” nhận ra trong tác phẩm của bà Maria Valtorta. Nhưng đó là các sai lầm ”giả” được hóa giải ngay bởi sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo.

          Chúng cho thấy các đương sự đã không có giờ hay không có can đảm đọc hết tác phẩm với sự thanh thản, khách quan phải có.

           Bạn đọc nào muốn biết chi tiết các tranh luận và phản bác có thể vào google.com Dossier Maria Valtorta.

           Linh Mục Giuse Hoàng Minh Thắng

 

Download TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI 

Viết bởi Maria Valtorta

Dịch gỉa: Nữ tu Phạm Thị Hùng CMR

Quyển 1-Chuẩn Bị.pdf

http://www.mediafire.com/view/?4bcyq77ze4ai2yo 

Quyển 2_Năm I Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?ea5acw4wttbdudd

Quyển 3-Năm II Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?o6gi6p73sk5lrhd

Quyển 4-Năm II Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?s9akma9mmdzdb26

Quyển 5-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?yrq9nq416v5s4dx

Quyển 6-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?8vl7kzjkskplk1b

Quyển 7-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?apbbvph8ndui8m3

Quyển 8-Chuẩn Bị Cuộc Tử Nạn.pdf

http://www.mediafire.com/view/?kbp3i58kizp5ad1

Quyển 9-Cuộc Tử Nạn.pdf

http://www.mediafire.com/view/?txb433uklyoke1x

Quyển 10-Vinh Quang.pdf

http://www.mediafire.com/view/?oln727ghllo7536

by Tháng Tám 24, 2012 Comments are Disabled Cuộc đời Chúa Giê-su (Maria Valtorta)