Post Tagged with: "ung thư"

NƯỚC  DỪA VỚI  HORMONE CHỐNG UNG THƯ

NƯỚC DỪA VỚI HORMONE CHỐNG UNG THƯ

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/08/coconut_water_book.jpg

Trích : “Coconut Water for Health and Healing” by Dr. Bruce Fife

Kim Tuyến & Hoàng Đình Tứ chuyển ngữ

 

NƯỚC  DỪA VỚI  HORMONE CHỐNG UNG THƯ

 

       Tóm tắt: Trong nước dừa có một loại hormone mang tên cytokinin, có tác dụng giống như hormone cytokine trong cơ thể con người. Hormone này có liên quan tới các chức năng sinh sản, tăng trưởng và phát triển, điều hòa cơ thể cho thích nghi với môi trường, tác dụng chữa trị và phục hồi, đông máu, và tính miễn nhiễm . Nó cũng có tác động trong việc phòng chống ung thư.

Vì cytokinins là những hormone tăng trưởng và kích thích sự phân chia tế bào, người ta có thể hỏi: Vậy chúng có thể qúa-kích-thích sự phát triển tới mức tế bào trở thành ung thư chăng? Thực sự điều này xảy ra ngược lại. Nghiên cứu trong thập niên 1960 chứng tỏ rằng khi cytokinins được thêm vào mô bị ung thư, sự phát triển bất bình thường đã chậm lại.

Nhiều nghiên cứu ban đầu về cytokinins được Hội Ung Thư Hoa Kỳ tài trợ. Vì cytokinins có những tính chất tương tự như cytokines nơi con người, là chất có hiệu qủa chống ung thư, các nhà nghiên cứu lý giải rằng cytokinins nơi thực vật cũng có khả năng hữu dụng trong việc chiến đấu chống ung thư. Sau đó, cytokinins đã được tường trình là có hiệu tính chống ung thư ở tế bào của người và loài vật.

Trong khi cytokinins kích thích sự phân chia tế bào, điều rất đáng chú ý là chúng không làm tăng  đáng kể tuổi thọ của tế bào hay tổng số tế bào phân chia đó. Đây là đặc tính rất đáng chú ý bởi với đặc tính này cytokinins có khả năng trì hoãn khả năng tăng dân số của mô ung thư.

Các tế bào trong cơ thể chúng ta có nguồn gốc từ một tế bào duy nhất. Khi chúng ta phát triển trong lòng mẹ, các tế bào phân chia thành các chức năng riêng biệt,  như tế bào xương, tế bào da, tế bào máu, v.v.. Mỗi tế bào có một nhiệm vụ và mục đính riêng. Từng tế bào mang mật mã di truyền chung nhưng nhiệm vụ và khả năng thì khác nhau. Sự khác biệt này rất cần thiết cho sự phát triển, sống còn, và truyền giống của cơ thể. Một khối tế bào giống nhau hay những tế bào không có chức năng riêng biệt thì vô dụng.

Một trong những đặc tính của ung thư là khi các tế bào không phát triển những chức năng khác biệt. Khi các tế bào trở thành ung thư, chúng mất khả năng thi hành chức vụ đặc biệt của chúng. Vi dụ: tế bào gan bị ung thư không còn thi hành chức vụ của tế bào gan nữa. Chúng thay đổi bản chất, trở thành vật ăn bám, đã vô dụng lại vẫn tiêu thụ những chất dinh dưỡng cần cho sự sống nữa. Những tế bào ung thư tăng nhanh chóng, chúng phân chia và nhân lên mãi không ngừng. Khi bướu phát triển, chúng gây trở ngại cho nhiệm vụ của các mô và cơ quan khác. Nếu trở ngại này trở nên trầm trọng sẽ có thể dẫn đến tử vong.

Để điều hòa sự phân chia tế bào, cytokinins cũng điều hòa tính cá biệt của tế bào. Nói cách khác, chúng giúp tế bào không cá biệt phát triển thành loại tế bào đặc biệt có mục đích hữu ích. Ở thực vật, cytokinins làm cho chỗ vỏ sần (nơi mà những tế bào không cá biệt của cây phát triển trên vết cắt) thành cá biệt trở lại để mọc chồi non. Vì những đặc tính tương tự ở ung thư và tế bào chai sần này, các nhà nghiên cứu đã dùng cytokinins trong việc làm tăng tiến tính cá biệt trong các mô của con người. Cytokinins đem lại sự thay đổi , từ đó các tế bào ung thư trở thành cá biệt trở lại.

Cytokinins cũng đem lại sự hữu hiệu trong việc lập chương trình cho các tế bào tự chết trong tế bào ung thư. Hiện tượng tế bào chết là một tiến trình tự nhiên, rất quan trọng vì nó giới hạn tuổi thọ  của tế bào. Khi tế bào gìa cỗi đi, chúng chết. Bình thường tế bào sẽ tự hủy sau một tuổi thọ giới hạn nào đó. Bằng cách này, tế bào mới sẽ thay thế tế bào cũ già cỗi. Riêng đối với tế bào ung thư thì, là những tế bào bị bệnh và đã mất thông tin lập trình để giới hạn tuổi thọ của nó, nên khi có đủ chất dinh dưỡng, chúng có thể hầu như sống mãi, cứ tiếp tục nhân lên và phát triển. Cytokinins có tác dụng  phục hồi lại tiến trình tự hủy của tế bào ung thư, để chúng chết đi và loại trừ ra khỏi cơ thể như các tế bào bình thường khác.

Cytokinins còn giúp bảo vệ chúng ta chống ung thư qua tính chống oxy hóa của chúng. Chất chống oxy hóa ngăn cản những gốc tự do có thể gây ung thư bởi đột biến DNA. Cytokinins được chứng minh có tác động trong việc chống ung thư và khi được thêm vào trong thức ăn sẽ giúp phòng ngừa ung thư.

ĐI ỀU KỲ DIỆU CỦA NHỮNG HÓA CHẤT THỰC VẬT

     Trong chữ Phytochemical – hay hóa chất thực vật, thì phyto có nghĩa là thực vật, cây cỏ. Phytochemical chỉ những hóa chất tồn tại tự nhiên trong thực vật, bao gồm thảo và mộc. Có tới hàng ngàn  hóa chất thực vật trong loài thảo mộc. Một số chất được phân loại là chất dinh dưỡng, như sinh tố (vitamin), và carotenoid (sắc tố); một số khác có tác dụng tạo màu cho loài thảo mộc, như chlorophyll (màu xanh lục), lycopene (màu đỏ), và beta-carotene (màu vàng), Một số khác nữa như phytohormone, thì lại liên quan tới sự sinh trưởng và phát triển của cây. Tất cả những thứ này ít nhiều đều có tác động tới con người.

Cả thực vật lẫn động vật đều có hormone. Hormone là những hóa chất truyền tin, giúp điều hòa sự sinh trưởng, các chức năng hoạt động và sự trao đổi chất. Trong cơ thể con người, hormone tạo ra từ tuyến giáp ở cổ, giúp điều hòa nhiệt độ cơ thể và sự trao đổi chất. Hormone sinh trưởng của con người điều hòa sự sinh trưởng và phát triển. Hormone do tuyến tụy tạo ra giúp cân bằng lượng đường. Hormone sinh dục kiểm soát sự phát triển phái tính, chức năng sinh dục. Các hormone kiểm soát, điều phối hầu như mọi lãnh vực của sự sống.

Các hormone thực vật kiểm soát sự phân chia tế bào, phát triển rễ, nẩy mầm, đơm bông. Nhiều hormone  có thành phần hóa học tương tự động vật và con người. Do đó, hormone thực vật có tác động tương tự đối với các chức năng trong cơ thể con người.

Lấy thí dụ, phytoestrogens, là những hóa chất trong thực vật, giống như những hormone sinh dục estrogen của con người. Isoflavones trong đậu nành và lignan trong hạt lanh là hai loại phytoestrogen phổ biến.

Estrogen là loại hormone cần thiết cho sự phát triển những đặc điểm nữ tính, là một loại hormone không thể thiếu trong việc sinh sản, cũng liên quan tới việc điều hòa lượng cholestorol, và duy trì mật độ (độ dầy đặc) của xương. Phytoestrogen trong thực vật cũng có tác dụng sinh học tương tự. Vì lý do này mà phytoestrogen đã được nghiên cứu để trị ung thư vú, ung thư tuyến tiền liệt, chứng loãng xương, các triệu chứng mãn kinh, và giúp giảm nguy cơ đau tim.

Thông thường khối lượng những hóa chất này trong thực vật khá nhỏ và có ít tác động tới con người. Tuy nhiên, nếu chúng ta tiêu thụ một số lượng lớn những thực phẩm giàu phytoestrogen trong một khoảng thời gian dài, nó có thể tạo một tác động sinh lý học đáng kể.

Những hormone thực vật nổi bật là những yếu tố sinh trưởng. Có ba loại hormone sinh trưởng thực vật chính: auxin, gibberellin, và cytokinin. Các hormone sinh trưởng thực vật được đầu tiên vào thập niên 1800. các nông gia Nhật bản đã quan sát thấy rằng lúa của họ mọc rất cao khi nó bị nhiễm một loại bệnh nấm gọi là bệnh bakanae (dịch là ‘hạt giống quái gở’) Loại nấm này sau này được đặt tên là gibberellin. Gibberellin, và sau này cả auxin nữa, có thể tìm thấy ở nhiều loại cây. Cytokinin là chất cuối cùng được tìm thấy.

Sự tăng trưởng được thực hiện qua hai cách: tăng số lượng bằng cách phân chia tế bào hoặc tăng độ lớn tế bào. Việc tăng số lượng tế bào tự thân nó không làm tăng trưởng – mà những tế bào mới được phân chia nhất thiết phải tăng kích tấc nữa. Nhìn chung, auxin và gibberellin  giúp tăng kích thước tế bào, trong khi đó cytokinin giúp phân chia tế bào. Những hormone này tạo ra nhiều tác động, và tương tác với nhau và với môi trường,  một cách phức tạp, khiến chúng ta chưa thể tìm hiểu hết được.

Hormone tăng trưởng được tạo ra ngay tại những mô đang phát triển, như rễ, mầm chồi, lá non, và hạt. Hormone tăng trưởng đặc biệt quan trọng trong các hạt, bởi vì chính từ nơi này, những tế bào mầm được nhân lên, phân chia chức năng, và phát triển thành cây trưởng thành. Trong khi cả ba loại loại hormone kể trên đều quan trong trong sự tăng tưởng và phát triển của thực vật, riêng cytokinin lại quan trọng đối với con người chúng ta.

CYTOKININ TRONG DỪA

     Không nên lẫn lộn chất cytokinin có trong dừa với cytokine có trong cơ thể con người. Cytokine là những chất giống như hormone do bạch cầu sản sinh. Chúng có liên quan tới việc sinh sản, tăng trưởng và phát triển, điều hòa sự cân bằng sinh lý học trong cơ thể  để đối phó với những thay đổi bên ngoài, tác động chữa trị và phục hồi, làm máu đông, tạo miễn nhiễm. Việc hai tên na ná giống nhau không phải là một sự tình cờ. Mỗi hormone có một chức năng hơi giống nhau, trong môi trường hoạt động của chúng. Cytonkinin chính là một loại cytokine của cây cối. Chúng ta sẽ nói về cytonkine sau. Cách viết của hai chữ này gần giống nhau nên dễ bị lẫn lộn. Chúng ta hãy bỏ ra vài phút để nhớ phân biệt hai chữ: cytokinin ở cây và cytokine ở người.

Nước dừa rất quan trọng trong ngành thực vật hiện đại, vì nó là chìa khóa dẫn tới sự khám phá chất cytokinin và kiến thức về sự tăng trưởng và sự phân chia chức năng.

Từ những thập niên 30 và 40 của thế kỷ trước, các nhà nghiên cứu đâ biết rằng thực vật có thể tự tái sinh. Có những nhánh cây và lá cây, dù bị cắt rời khỏi rễ, cũng có thể tự mọc rễ và phát triển thành một cây trọn vẹn. Nhưng chúng đã làm thế nào thì vẫn còn là một bí mật. Để hiểu được hiệu quả này, các nhà thực vật học đã nghiên cứu những tế bào được cấy trong phòng thí nghiệm. Tuy nhiên, những mô tạo được, hoặc là không tăng trưởng được, hoặc chỉ phát triển trong một thời gian ngắn. Cấy được một cây phát triển trọn vẹn là một chuyện hy hữu.

Các nhà nghiên cứu biết tầm quan trọng của vitamin và chất khoáng trong mẫu tế bào và đã cố gắng kết hợp nhiều thứ. Một phát minh quan trọng đã được thực hiện vào năm 1941 khi Johannes Van Overbeek và các đồng nghiệp khám phá ra rằng nếu chúng ta thêm nước dừa vào phôi thực vật, nó sẽ kích thích tốt sự tăng trưởng của tế bào. Thí nghiệm với phôi cà-rốt, Van Overbeek cấy chúng trong nước dừa rồi sau đó đem trồng xuống đất. Các phôi lớn lên như thổi, cứ như một phép thần. Chỉ trong vòng 4 ngày, các phôi đã tăng thể tích lên tới hơn 300 lần. Trong mười ngày, tăng tới 8000 lần. So sánh với các mẫu phôi không cấy trong nước dừa, chúng không thấy có sự phát triển nào cả. Và đây là lần đầu tiên trong lịch sử, các tế bào cấy ghép đã tăng trưởng trở thành một cây phát triển trọn vẹn. Các nghiên cứu của Van Overbeek đã chứng minh rằng tế bào thực vật mang ADN giúp phát triển được một cây trọn vẹn. Tất cả những thứ cần có là chất dinh dưỡng và hormone sinh trưởng của cây.

Van Overbeek nhìn nhận rằng nước dừa cung cấp những yếu tố sinh trưởng còn thiếu, cần thiết cho cây tăng trưởng tới độ trưởng thành. Ngay từ lúc đó ông và các nhà nghiên cứu khác đã gọi tên nước dừa là “sữa dừa” (coconut ‘milk’) và tên này vẫn còn tồn tại tới nay (Thực tế, coconut milk là tên gọi của nước cốt dừa, còn cùi dừa là coconut meat, ND). Trong những tài liệu nghiên cứu họ đã xuất bản thì ‘sữa dừa’ có nghĩa là nước dừa.

Nước dừa chứa tất cả những chất dinh dưỡng cần thiết để các bộ phận bị cắt rời của cây tiếp tục phát triển thành một cây trọn vẹn, vì vậy nó trở thành một chuẩn mực được sử dụng trong các nghiên cứu cấy ghép trong phòng thí nghiệm. Nước dừa cũng dùng như một chất kích thích tăng trưởng, giống như chất bổ sung làm phân bón, trong các vườn ương cây hoặc các nghiên cứu thực vật. Trong nhiều trường hợp, nó cũng giúp rau cải tăng trưởng, gia tăng năng suất, và nguồn vitamin. Trồng rau cải có bổ sung nước dừa, sẽ tăng đáng kể lượng vitamin A (beta-carotene), B6 và C, cũng như chlorophyll.

Việc tìm kiếm các yếu tố tăng trưởng đặc biệt trong nước dừa đã dẫn tới việc khám phá ra chất cytokinin. Mãi tới năm 1955 chất cytokinin lần đầu tiên được tách biệt và nhận diện. Hợp chất này được đặt tên là kinetin, vì khả năng của nó là kích thích sự phân chia tế bào (cytoninesis, nghĩa là phân chia tế bào). Cytokinin hiện là tên gọi của tất cả các hormone thực vật có chức năng kích thích sự tăng trưởng giống như kinetin.

Có một điều lạ là, việc khám phá ra kinetin, không phải là nhờ vào dừa hoặc bất cứ loại thực vật nào khác, mà nhờ vào cá. Nó đã được tìm thấy trong ADN của tinh trùng cá trích. Trong khi các nhà nghiên cứu đang cố gắng nhận diện các yếu tố tăng trưởng trong nước dừa, họ tình tờ phát hiện ra là tinh trùng cá trích cũng kích thích sự phát triển của cây, như nước dừa. Điều này khiến họ tìm hiểu kỹ thêm và cuối cùng đã khám phá ra chất kinetin.

Cho tới năm 1961 người ta mới tìm được chất cytokinin lấy từ thực vật. Nó được gọi là zeatin và rất giống kinetin  về hình thức cấu tạo và chức năng. Kể từ đó người ta đã nhận diện được nhiều hormone sinh trưởng tự nhiên và tổng hợp (nhân tạo). Mặc dù kinetin ban đầu được tìm thấy trong tinh trùng cá, nhưng sau này nó được tìm thấy trong thực vật. Tất cả các loại cytokinin dều mang cấu trúc hóa học và chức năng điều hòa tăng trưởng tương tự.

Thực vật chứa một hỗn hợp tất cả ba loại hormone tăng trưởng (auxin, gibeerellin, và cytokinin). Độ cô đặc của mỗi loại hormone khác biệt trong bản thân từng cây. Các hạt rất giàu cytokinin vì chúng cần thiết cho sự phát triển và phân chia chức năng của cây non. Dừa là một loài thực vật có hạt to nhất, chứa một lượng cytokinin cao nhất. Cho nên nước dừa là một nguồn phong phú hormone thực vật. Nó chứa ít nhất 9 loại cytokinin khác nhau, kể cả kinetin. Nó cũng chứa những chất điều hòa sự tăng trưởng như gibberellin, auxin, ethylene và acid abscissic. Đó là lý do nó thành công trong việc kích thích và điều hòa sự tăng trưởng trong các mô cấy trong phòng thí nghiệm.

Hạt thực vật còn chứa một loại mô mang tên endosperm. Mô này rất cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của cây con. Endosperm là một chất giàu chất tinh bột và chất bổ dưỡng, được tìm thấy trong các loại hạt, đậu. Nó cung cấp cho phôi thực vật các chất bổ và hormone cần thiết để phát triển thành cây. Endosperm cung cấp nguồn thức ăn cho đến khi nó mọc rễ, thân và lá để có thể tự thân phát triển.

Nước dừa là một loại endosperm dạng lỏng. Cùi dừa là loại endosperm dạng cứng. Khi trái dừa trưởng thành thì nước dừa biến thành cơm dừa, rồi cùi dừa (cứng đặc hơn). Một trái dừa già có thể sống được trên 12 tháng, bằng hai thứ endosperm lỏng và đặc đó. Với khoảng thời gian dài đó, nó có thể lang thang chu du trên biển cả, cuối cùng tìm một bến đậu và bám rễ.

Endosperm chính là nguồn thức ăn nuôi dưỡng những cây non. Nó như sữa mẹ nuôi dưỡng trẻ sơ sinh trong vài tháng đầu tiên của cuộc sống, cho tới khi cai sữa. Nước dừa, vốn là một endosperm dạng lỏng, về cơ bản, là một loại sữa nuôi cây non. Điều này cũng giải thích tại sao trong tiếng Anh có nhiều người gọi nước dừa là sữa dừa (coconut milk). Tuy nhiên, coconut milk thực ra là tên gọi nước cốt dừa, và tất nhiên, về mặt đặc điểm vật lý, rất khác với nước dừa.

 

 

 

 

by Tháng Tám 11, 2012 Comments are Disabled Nước Dừa
Lá CHAPARRAL có hiệu qủa cao đối với UNG THƯ và VIÊM KHỚP

Lá CHAPARRAL có hiệu qủa cao đối với UNG THƯ và VIÊM KHỚP

Dr. Christopher’s School of Natural Healing

Tên thường gặp:
Creosote bush, chaparral, greasewood, black bush, grease bush, Gobernadora (Span.).

Đặc tính:
Cây bụi có lá xanh quanh năm, mọc thẳng, cao 0,6 – 3 mét, các nhánh vướng vào nhau, giòn, nhiều lá.
Lá nhỏ, màu xanh olive, nhiều nhựa, nhánh tỏa ra các phía khác nhau từ trung tâm.
Hoa màu vàng tươi, tỏa rộng 1,5 cm.
Trái nhỏ, màu trắng, nhiều lông, giống viên nang hình cầu.
Vị đắng.
Nặng mùi.

Bộ phận được sử dụng: Lá và nhánh non.

Dược tính:

        Chất thay thế, lợi tiểu, thuốc bổ, tẩy lọc, chất làm se, chống viêm khớp, chống viêm thấp khớp, chống bệnh tràng nhạc, chống nôn (liều mạnh), chống độc.

        Chaparral đặc biệt được biết đến về việc sử dụng cho bệnh ung thư và viêm khớp. Thổ dân Mỹ xem chaparral như thuốc chữa mọi bệnh. Rất hiệu nghiệm với các bệnh thuộc đường tiểu và hệ bạch huyết. Nó giúp hệ thống cơ thể mạnh mẽtái tạo lại các mô. Nó tẩy lọc đường ruột và làm các cơ nhu động ruột hoạt động tốt. Chaparral có vị đắng, nhưng nó đưa đến kết qủa nhanh chóng trong những tình trạng bệnh trầm trọng, gay go.

       Chữa đau nhức, vết bầm tím, vết cắt, viêm của những vết thương nhỏ, trái rạ, rắn cắn, bệnh hoa liễu, lở loét, uốn ván.

Thực hành: pha trà, bột lá.

     Pha trà*: Mỗi một muỗng cà phê lá chaparral dùng 240 ml (8 oz) nước. Cho lá vào trong phích nước, chế nước sôi vào phích và vặn chặt nắp lại ngay; ngâm trong 24 giờ, lọc lại, thêm mật ong cho dễ uống; đổ ra chai và cất nơi mát.

Liều lượng:

  •  Trà: 1 ly (180-240 ml = 6-8 oz), 3 lần mỗi ngày.
  • Bột lá: 2-3 grams (4-6 viên nang #0 với lượng 500 mg mỗi viên), 3 lần mỗi ngày.

CẢCH DÙNG:

  • Hậu môn: Trĩ: dùng bên ngoài như ngâm trong bồn tắm ngồi hay trong chậu.
  • Uống: Ung thư, viêm khớp, viêm thấp khớp, v.v.: Uống trà chaparral trong 3 tuần, sau đó có thể uống viên chapparal.
  • Da: Vết thương cũ, viêm: Đắp nước trà chaparral nóng ấm.
  • Vết bầm, cắt, và vết thương nhẹ: Rửa bằng trà chaparral.
  • Âm đạo: Huyết trắng, mất kinh, đau bụng kinh nguyệt, sa tử cung: thụt rửa âm đạo bằng trà chaparral.

CÔNG THỨC:

1.Trà chaparral (không đắng)

  • 2 thìa xúp lá chaparral
  • 4 thìa cà phê hoa Elder (hoa cơm cháy)

         Phích nước

         Pha trà* chaparral theo cách nói trên, lọc lại, tráng phích nước cho sạch, cho công thức 2 thìa xúp lá chaparral và 4 thìa cà phê hoa eder vào đáy phích, đổ trà chaparral mới lọc vào lại phích, ngâm 2 tiếng hoặc cả ngày, thỉnh thoảng lắc phích nước. Lọc lại và đổ trà này vào bã chaparral – hoa elder rồi lọc lại. Làm thế vài lần. Sau cùng cho mật ong thêm vào trà đã lọc lân cuối, cất nơi mát.

         Liều lượng:         180 ml (6 oz), ngày 3 lần.

2.Thuốc mỡ chaparral (chaparral oilment)

  • 1 ounce Chaparral
  • ½ chén dầu dừa
  • ½ ounce Sáp ong (để thêm độ cứng)

Thực hành: Đặt nguyên liệu vào lò nướng trong 1 giờ ở 82 độ C (180 º F), dùng rây lọc lại rồi khuấy đều cho đến khi đặc lại, cho vào lọ.

Cách dùng: Thoa trên vùng bệnh khi cần thiết.

Đặc điểm cây chaparral:

          Cây sống lâu năm. Mọc thành những bụi thưa vùng bình nguyên sa mạc khô miền Tây Nam Hoa Kỳ và miền bắc Mexico (bao phủ các cùng rộng lớn ngoài các cây thân gỗ khác); nó mọc ở từ cao độ thấp và đôi khi lên đến cao độ 1000 mét. Tạo thành thảm thực vật đặc trưng ở Gila, tiểu bang Colorado, Mohave và các sa mạc tương tự. Nó cũng được trồng ở khu vườn sa mạc như để trang trí. Hoa nở vào đầu mùa xuân, và để lại hạt sau khi qủa là thực phẩm dinh dưỡng tốt cho loài gậm nhấm và thú hoang dã nơi sa mạc.

Thu hoạch:

          Thời gian tốt nhất để thu hoạch là khi hạt trưởng thành vào mùa xuân hay mùa thu, nhưng cũng có thể thu hoạch vào các thời điểm khác.

Sấy khô và dự trữ:

         Hãy cẩn thận để bảo quản loại dầu qúy gía dễ bay hơi này.

Những ghi chú thêm từ các tài liệu khác:

         Việc dùng chaparral để chữa ung thư không phải chỉ mới đây. Người bản xứ Mỹ đã dùng nó qua nhiều thế kỷ. Một người  Mỹ bản xứ lão thành nói: “Cách tốt nhất để chữa ung thư trước tiên là bạn hãy ngưng làm những gì gây ra ung thư: thực phẩm bạn ăn và những mối lo lắng đóng vai trò quan trọng. Hãy tẩy lọc toàn hệ thống cơ thể, đừng quên là bạn cần uống nhiều trà chaparral và trà sage. Uống trà chaparral tuần thứ nhất, trà sage tuần thứ hai. Tiếp tục luân phiên như vậy, một tuần trà chaparral, một tuần trà sage, 3-4 ly một ngày. Bạn sẽ không thấy nhiều người Mỹ bản xứ mắc bệnh ung thư.”

         Chaparral có nhiều khoáng chất như calcium, phosphorus, potassium, magnesium, đồng, và nhiều chất khác. Nó có nhiều protein như alfalfa. Chaparral không có alkaloids và hoàn toàn không có độc tố.

         Chaparral có lượng chống oxy hóa cao, có thể bảo vệ con người chống lại các tế bào hư hỏng dẫn tới ung thư. Những nghiên cứu trên chuột ở phòng thí nghiệm cho thấy chaparral ngăn sự phát triển của các khối u, kể cả khối u ác tính.

         Hiện nay chaparral được dùng trong một số công thức thảo dược nổi tiếng chẳng hạn như Hoxey Formula, Dr. Christopher’s Bloodstream Formula, Dr. Richard Schulze’s Detox Formula, cũng như Jason Winter’s Tea.

          Chaparral thanh lọc máu và cơ thể  hiệu qủa.  Dr. Schulze mô tả thảo dược này trong công thức tẩy lọc của ông như chất tẩy lọc máu và hệ bạch huyết cổ truyền và đã rất thành công trong nhiều năm ở bệnh viện của ông.”

 Chapparral: Chất tẩy lọc tự nhiên cho cơ thể

            Hầu hết chúng ta tắm gội thường xuyên để làm sạch bên ngoài cơ thể, nhưng có khi nào chúng ta nghĩ về việc làm sạch bên trong không?
            – Ingri Harkins-

Thảo dược chữa mọi bệnh: Chaparral (Larrea Tridentara)

                  Chaparral là một trong những thảo dược lọc máu tốt nhất không chứa độc tố trên trái đất. Lịch sử của Chaparral bắt đầu từ thời cổ Ấn Độ khi lá chaparral từ bụi cây mọc ngoài sa mạc được chế trà làm thuốc.

Thổ dân Mỹ bộ tộc Shoshone sử dụng trà Chaparral như một phương thuốc trị cảm lạnh, thuốc lợi tiểu và thuốc trị hoa liễu.          

       Bộ tộc Papago sử dụng Chaparral cho cả bên trong lẫn bên ngoài cơ thể. Nó được coi là một phương thuốc phổ quát cho chứng khớp cứng, mưng mủ lở loét, các vết chích hay cắn độc, và đau bụng kinh nguyệt. Lá khô và bột lá pha trà thoa trên rốn bé sơ sinh để thúc đẩy chữa lành, thoa trên vú người mẹ để cho nhiều sữa.

       Bộ tộc Pima dùng Chaparral khi họ cần nôn mửa để làm sạch dạ dày.  Họ làm nóng các đầu nhánh bụi cây chaparral để lấy chất nhựa nhỏ vào lỗ sâu răng, trị nhức răng.           

       Bộ tộc Coahuilla gọi là Chaparral a-tu-kul và uống trà Chaparral cho các vấn đề đường ruột và chứng bí tiểu. Họ cũng sử dụng cho các con ngựa để chữa cảm lạnh và các bệnh khác.           

       Thật là thú vị khi biết rằng khoa bệnh lý học của người bản xứ Mỹ bao gồm các vấn đề về đường ruột và dạ dày, ho, cảm lạnh, sốt vì tắt mạch sữa, đau mắt (do khói lửa), bong gân, đau nhức cơ bắp, thương tích và bệnh thấp khớp mãn tính. Sau khi tiếp xúc với người da trắng và trao đổi hàng hóa trong đó bao gồm các mặt hàng như đường và rượu, bệnh sởi, ho gà, bệnh đậu mùa, bệnh hoa liễu và bệnh lao xuất hiện.

       Chaparral là một thuốc chữa bệnh chính thức trong Dược điển của Hoa Kỳ từ năm 1842 đến năm 1942 và đã được liệt kê như là một thuốc long đờm và thuốc kháng sinh trị bệnh phổi.

       Trước khi mẹ tôi biết về các loại thảo mộc khác cho việc chữa bệnh, gia đình chúng tôi sử dụng Chaparral như thuốc chữa bá bệnh. Là thảo dược có tính kiềm, tẩy lọc, Chaparral luôn có thể được tin tưởng để dùng chữa bệnh vì hầu hết các bệnh của chúng ta do qúa nhiều độc tố tích tụ trong cơ thể. Việc chữa lành đáng kể nhất là khi mẹ tôi phát triển một khối u trong tử cung to bằng một trái chanh. Các bác sĩ đề nghị cắt bỏ tử cung. Mẹ tôi lịch sự từ chối và bắt đầu uống trà Chaparral và viên Chaparral một cách nghiêm túc. Vài tháng sau khi mẹ tôi trở lại, các bác sĩ cho xét nghiệm pap smear và chẩn đoán, họ nghi rằng họ đã phạm sai lầm khi chẩn đoán lúc trước bởi vì không có một dấu vết gì của khối u ban đầu. Xét nghiệm pap smear cũng hoàn toàn bình thường trở lại. Chúng tôi đã chia sẻ giá trị của việc sử dụng Chaparral với nhiều phụ nữ có khối u hoặc u nang trong hệ sinh sản của họ. Tất cả đã uống trà Chaparral hàng ngày trong vài tuần báo cáo lại rằng khối u và u nang của họ đã biến mất và họ tri ân sâu xa thảo dược tuyệt vời này.           

       Ngày nay chaparral được biết đến như một tác nhân chống ung thư. Có rất nhiều chứng từ của những người đã sử dụng chaparral cách thành công để loại bỏ khỏi cơ thể các khối u, khối u ác tính, và hầu hết các dạng ung thư. Trà Jason Winters, nổi tiếng nhờ giúp nhiều người khỏi ung thư, chứa Chaparral là thành phần số một của công thức. Jason Winters tuyên bố rằng ông đã chữa khỏi bệnh ung thư của mình bằng cách sử dụng công thức của ông với ba loại thảo dược.

       Tôi thường giới thiệu Chaparral như là một chất tẩy lọc bên trong. Tôi nói với mọi người: “Sao bạn tắm hàng ngày nhưng lại không bao giờ nghĩ đến việc tẩy sạch bên trong? Nếu bạn không thường xuyên tẩy lọc bên trong cơ thể, bạn đang mời đón các bệnh tật vào trong đời sống của bạn. ”           

       Vậy Chaparral làm cách nào để giảm và loại bỏ các khối u ác tính và những vấn đề khác? Đoạn văn sau đây trích trong quyển sách của Tiến sĩ Kelly, là câu trả lời cho ung thư:

        “Là chất lọc máu, chaparral lọc sạch các ngõ ngách sâu trong các mô và giúp cơ thể loại bỏ các chất thải độc hại. Trong xã hội hiện đại, tuyến tụy, gan, các mô và các cơ quan khác bị tắc nghẽn bởi các chất độc từ thuốc tây, thuốc xịt, độc chất kim loại và các chất ô nhiễm khác đến nỗi các cơ quan của chúng ta không thể hoạt động bình thường. Những thứ này là những thứ đối kháng với sự chuyển hóa các enzyme, chất khoáng và vitamin trong cơ thể. Đặc biệt đối với ung thư, các enzym tuyến tụy bị khóa lại do các chất đối kháng, vì thế trở thành vô hiệu hoàn toàn. Bằng cách dùng chaparral đào thải các đối kháng từ các enzym tuyến tụy này, chúng tôi thấy rằng hệ phòng thủ của bệnh nhân ung thư chiến đấu và phá hủy các khối u ác tính. Cũng đã được cho thấy rằng Chaparral hoạt động tốt trong việc đào thải các độc tố và dư lượng thuốc ma túy của những người đã từng nghiện ngập.”           

       Mười lăm năm trước, tôi sống ở thành phố Tempe, tiểu bang Arizona, làm việc tại công ty Gentle Strength Food trong ngành dược thảo. Nhiều người đến với chúng tôi từ các ban ngành khác với đủ loại bệnh khác nhau. Vì công việc của chúng tôi không phải là chẩn đoán và kê toa, tôi không thể chia sẻ với họ hiệu năng của bụi cây chaparral là cây địa phương ở đó. Một anh ở độ tuổi 20 muốn có thảo dược nào giúp cho làn da được nhuận sáng. Tôi đề nghị anh uống 6 viên chaparral mỗi ngày trong một tuần, những ngày sau đó uống 10 viên một ngày, chia làm ba lần trong ngày. Vài tuần sau anh trở lại rất phấn khởi về kết quả. Da của anh đã được cải thiện đáng kể. Nhưng sự thay đổi đáng kể nhất đối với anh là giảm cân đều đặn và tăng năng lực. Anh bắt đầu giới thiệu chaparral với mọi người trong nhà và mẹ anh, người bị viêm khớp nặng, cũng được thuyên giảm nhiều bằng cách uống viên chaparral hàng ngày. Cứ cách vài tuần anh đến để lấy thêm các viên chaparral càng lúc càng nhiều hơn để cho các bạn và những ai anh gặp gỡ.           

       Một cô đến trong tình trạng không chịu nổi do nhiễm độc cây thường xuân. Tôi đề nghị cô dùng lá chaparral làm thuốc đắp lên chổ sưng và để qua đêm. Cô đến lại để cám ơn tôi vì vết sẩn ngứa hoàn toàn biến mất khi cô lấy thuốc đắp ra vào sáng hôm sau.

       Naturopath Eileen Marsh đã nói chứng từ như sau:

            “Tôi bắt đầu dùng 2 viên chaparral trong mỗi bữa ăn và trong 6 tuần, tôi được cảm giác kỳ diệu của hạnh phúc. Tôi nhận ra rằng tiếng kêu rắc nhỏ ở đầu gối khi bước lên thang lầu đã biến mất. Vì vậy tôi quyết định uống 4 viên mỗi bữa ăn xem sao, vì tôi luôn tin vào giác quan nhạy bén của mình. 5 ngày sau, tôi chú ý thấy một mụn cóc đã phẳng xuống hoàn toàn. Tôi đã cố gắng ít là một năm để trừ khử nó. Bây giờ tôi biết nó giúp chữa viêm khớp, và làm tan khối u.

            “Sau đó tôi thử nghiệm với việc uống 5 viên mỗi bữa ăn. Điều này làm tôi cảm thấy tuyệt vời. Chaparral giúp tôi đi đại tiện 4-5 lần một ngày, mặc dù nó không phải là thuốc nhuận tràng, nó giúp cho đường ruột. Tôi có một bệnh nhân ung thư uống 24 viên một ngày, sáu viên trong mỗi bữa ăn và trước khi đi ngủ. Trong một tuần, mặt ông đã bớt sưng nhiều, ông có thể kéo tai mà không bị đau nữa. Chaparral thật cho nhiều hiệu qủa.”           

       Trước khi thử nghiệm cho chính mình, bạn cần biết rằng chaparral là chất tẩy độc rất mạnh. Hầu hết mọi người kinh nghiệm da họ nổi mụn hay bị sẩn ngứa khi uống trong vài ngày đầu. Hãy bắt đầu với liều lượng nhỏ và uống thêm nhiều nước. Một bạn thân của tôi, cơ thể có mùi hôi nặng, thừa nhận đã uống LSD thường xuyên trong quá trình một năm thời trẻ, uống dược thảo lọc máu đậm mà thành phần chính là chaparral. Ông đã có ảo giác tại nơi làm việc, may mắn là ông tin vào lời giải thích của tôi về đặc tính của chaparral nên tếp tục dùng tiếp. Tuần đầu uống chaparral thường có kinh nghiệm khó chịu như nhức đầu, mệt mỏi vì các độc tố đang được đưa vào máu để kéo ra ngoài. Tuy nhiên, kết quả cuối cùng chắc chắn là có giá trị tuyệt vời, dư sức đền bù cho những khó chịu tạm thời ban đầu.

            Cá nhân tôi, biết những lợi ích của chaparral khi tôi cần phải uống nó hàng ngày.  Sau khi trải qua rất nhiều căng thẳng cùng với khí ô nhiễm, tôi đã được khỏe lại trong vài tuần uống chaparral hàng ngày. Hầu hết chúng ta không làm gì cả cho đến khi “khủng hoảng” do bệnh tật xảy ra, và đã xảy ra cho tôi dưới dạng dị ứng phấn hoa. Tôi lập tức làm viên chaparral và ớt cayenne để uống. Tôi rất biết ơn khi kinh nghiệm những lợi ích của thảo dược này.

            Qua nhiều năm sử dụng và giới thiệu chaparral, tôi không thấy nó có tác dụng phụ bất lợi nào cả. Bao lâu các phương dược trong hình thức của các thảo dược hay cỏ dại có sẵn dễ tìm, chúng ta cần học cách sử dụng chúng.

            Chúng tôi khuyến khích bạn đặt chaparral  như một thành phần quan trọng trong tủ thuốc cá nhân của riêng bạn.

LM Hoàng Minh Thắng
và nhóm Tông Đồ Mục Vụ Sức Khỏe

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/12/DISCLAIMER.jpg

by Tháng Bảy 5, 2012 1 comment Một số loài dược thảo, Thảo Dược
KHỐI U (TUMOR)

KHỐI U (TUMOR)

Dr. Christopher’s School of Natural Healing

KHỐI U (TUMOR)

Định nghĩa

Các khối u não

Nguyên nhân 

THẢO DƯỢC HỖ TRỢ:

1. Khối u tràng nhạc, lao hạch, sưng tuyến hạch

2. Dầu xoa bóp với hp cht Poke Root

3. Nước ép ti cho loại khi u không đau

4. White Pond Lily ((bông) súng trắng)

5. Cleavers (cỏ có hạt bám vào quần áo) cho bướu ngực

6. Du trơn (Slppery Elm Pack) cho các vấn đề thuộc cơ quan sinh dục – đường tiểu của phụ nữ, u, bướu, v.v.

7. Viên âm đạo (Bolus: Công thức 62- Vaginal Bolus)

8. Chườm nóng với dầu thầu dầu (Castor Oil Fomentation)

9. Chương trình hàng ngày cho các bệnh nan y

10.Viên thuốc âm đạo (vaginal bolus)

11.Công thức phối hợp Yellow Dock

12.Thuc m đen (black oilment)

13.Có phương pháp tự nhiên nào để loại trừ u xơ không?

14.Chaparral

15.Ung thư – Các khối u và Tẩy lọc cơ thể

16.Khối u ở tuyến tùng (pineal gland) và tuyến yên (pituitary gland)

17.Nước trái cây

18.Kali hu cơ (Organic Potassium)

19. Mullein & Lobelia

20.Khi u tai

21.Lá bắp cải (cabbage leaves)

22.Củ cải đường (red beet)

23.Sung, vả (figs)

24.Thuốc đắp hạt lanh (flaxseed)

CHỨNG TỪ:

1.Đi ra vài khối u: một to gần bằng trái bưởi, và vài u nang

2.Giảm khối u ở chân

3. Comfrey

****************

Định nghĩa:
        Khối u (bướu) là một chỗ bị sưng phồng lên ở cơ thể, tập trung những tế bào hoặc cơ phát triển không bình thường, sống ký sinh và không bị viêm. Những cơ này phát xuất từ những tế bào của cơ thể nhưng lại phát triển độc lập với cơ thể. Chúng có thể là lành tính hoặc ác tính. Chúng có thể phát triển nhanh chóng hoặc từ từ, và xuất hiện ở các bộ phận cơ thể như những tuyến bạch cầu hoặc hạch, ở vùng cơ quan sinh dục và ổ bụng.

Các khối u não:

         Các khối u não thông thường nhất là u màng não, u thần kinh đệm. Các khối u ác tính phát sinh từ mô liên kết (xương, cơ bắp, mỡ, sụn: sarcomas) và các ung thư xảy ra hầu như luôn luôn bắt nguồn từ các khối u ở các bộ phận khác của cơ thể, ví dụ, vú và ruột. Các khối u có bất kỳ kích cỡ nào và thời hạn nào gây ra một số triệu chứng chung cho thấy sự gia tăng áp lực bên trong sọ não, cụ thể là nhức đầu, nôn mửa, viêm dây thần kinh thị giác hoặc sưng dây thần kinh thị giác ngay lúc nó xâm nhập vào nhãn cầu. Chóng mặt là một triệu chứng chung khác, và vào giai đoạn cuối cùng sự thay đổi về tâm thần có thể xảy ra. Trong các khối u của thùy trán, thay đổi tâm thần đôi khi là các dấu hiệu sớm nhất của quá trình bệnh. Các khối u của thùy thái dương thường tạo ra một trạng thái mơ màng, đôi khi liên quan đến ảo giác về mùi. Vị trí của khối u thường có thể được xác định bằng cách ghi nhận những bất thường nơi cơ bắp và cảm giác của các bộ phận khác nhau trong cơ thể mà chức năng của từng vị trí não có tương quan đến.
         Não bộ cần được nuôi dưỡng đúng cách  và tránh những chất liệu vô cơ (inorganic) có thể gây rối loạn cho chức năng của não.

Nguyên nhân:

         Do không thể từ bỏ những thực phẩm không lành mạnh.

         Hàng trăm phụ nữ đã tự hỏi tại sao họ có khối u và u nang trong cơ thể của họ. Nguyên nhân, theo tiến sĩ Christopher, là do thiếu kali (potassium). Khi bạn ăn nhiều các loại thực phẩm có kali (không phải là uống thuốc bổ sung), bạn có thể loại trừ các nguyên nhân gây ra các u nang và khối u. Các thực phẩm khác, có hàm lượng kali thấp, không được tăng thêm lên khi bạn đang cố gắng tăng kali trong hệ thống. Khi bệnh nhân thực hành chương trình ba-ngày tẩy lọc và theo chế độ ăn kiêng không chất nhầy cũng như uống công thức Hệ sinh sản nữ (#21 Female Reproductive), họ nhận được dồi dào chất dinh dưỡng có nhiều kali.  Những điều kỳ diệu xảy ra với họ. Để có kết quả nhanh hơn, bạn có thể thêm vào mỗi cốc trà thảo dược  6-10 giọt cồn cơm cháy (elderberry tincture) hoặc 6-10 giọt cồn óc chó đen (black walnut tincture), cả hai đều có lượng kali rất cao.

          U nang và các khối u giống như con đỉa, nhưng chúng chỉ ở những nơi mà cơ thể thiếu chất. Ngay sau khi cơ thể được cân bằng và khỏe mạnh, các u nang và khối u phải ra đi, bởi vì chúng không thể ăn các chất rất lành mạnh cho sự phát triển của chúng được. Chúng chỉ ăn những chất dơ, chất độc trong cơ thể thôi.        

         Đây là lý do tại sao rất nhiều bệnh nhân mang đến cho Tiến sĩ Christopher các u nang và khối u với các kích cỡ khác nhau mà chúng đã bị trục xuất khỏi cơ thể của bệnh nhân. Không có đủ thực phẩm, các khối u hoặc là chết hoặc suy thoái đi nên chúng quyết định rời khỏi cơ thể.

         Có một số cách để thu nhận kali. Tiến sĩ Bernard Jensen quảng bá canh kali nấu từ các rau cải sấy khô. Tiến sĩ Bronner cũng đưa ra làm cho một sản phẩm tương tự, tuyệt vời. Bạn cũng có thể tự nấu canh kali bằng cách ninh nhỏ lửa (dưới độ sôi) các phần bằng nhau từ khoai tây đỏ, cần tây, cà rốt, hành, và rau thơm, thảo dược để thêm hương vị. Rau và trái cây tươi sống cũng cung cấp nhiều kali.

         Khi u nang hoặc khối u phát triển bên ngoài cơ thể, chúng ta thường phản ứng bằng việc cắt bỏ chúng đi. Điều này làm việc chữa lành thất bại  bởi chúng ta chữa ngọn chứ không chữa tận gốc. Bạn có thể cắt u nang, khối u, và đốt mụn cóc (mà nguyên nhân là do thiếu kali), hoặc hủy các nốt ruồi nhiều bao nhiêu như bạn muốn, nhưng nếu bạn không đi vào nguyên nhân, chúng sẽ mọc trở lại, bạn lại có  u nang, khối u, nốt ruồi như trước hay nhiều hơn trước nữa. Những biểu hiện khác nhau của sự thiếu hụt kali sẽ vẫn tiếp tục rộ lại trên cơ thể vì tình trạng cần sửa chữa là bên trong cơ thể. Tiến sĩ Christopher luôn nhấn mạnh rằng bạn cần phải đi vào nguyên nhân, đó chính là cách thức ăn uống của chúng ta.

THẢO DƯỢC HỖ TRỢ:

         Hướng dn chung: Xây dựng lại các mô để cơ thể có thể làm tróc ra  các tích tụ của khối u. Điều này được thực hiện bằng cách làm cơ thể khỏe lên với các thảo dược sau đây: bayberry, blue flag, blue violet, burdock root, celandine, chickweed, coltsfoot, coral, elder flowers, flaxseed, hops, Irish moss, marigold flowers, mullein, mugwort, myrtle, red foot, rock rose, sage, sanicle, tansy, skunk cabbage, slippery elm, sorrel, St. John’s wort, walnut leaves and husks (green), white pond lily, wild yam, witch hazel, wood sage, yellow dock.

 

1. Khối u tràng nhạc, lao hạch, sưng tuyến hạch:

  • 3 ounces Plantain leaves (Plantago major; P. lanceolata)
  • 6 ounces Fumitory herb (Fumaria officinalis)
  • 3 ounces Yellow dock root (Rumex crispus)
  • 12 ounces White resin
  • 12 ounces Olive oil
  • 12 ounces Beeswax

Thực hành: ninh lửa nhỏ các thành phần trong một giờ, lọc lại và khuấy đều trong lúc chờ nguội; khi nguội, cho vào bình và cất nơi mát.

 

2. Dầu xoa bóp với hp cht Poke Root: Xem công thức.

  • 3 ounces Poke root, fluid extract (Phytolacca americana)
  • 1 teaspoon Bayberry, powder (Myrica cerifera)
  • 1 teaspoon Sassafras, oil (Sassafras albidum)
  • ½ teaspoon Bay or laurel (Laurus nobilis)
  • 2 ounces Tragacanth, thick mucilage of gum (Astragalus gummifer)

Thực hành: Trộn 4 loại thảo dược đầu trước, rồi thêm chất dẻo (gum) vào, lắc cho đều.

Hướng dẫn: Thoa lên vùng bệnh 4-5 lần hàng ngày. Đối với các khối u và khối u lan rộng, chà xát và thoa bóp nhiều.

 

3. Nước ép ti cho loại khi u không đau. Thoa nước ép tỏi tươi lên vùng bệnh.        

        Lưu ý: Không nấu sôi nước ép tỏi, vì sẽ làm giảm nhiều hoạt tính của tỏi. Chất thuốc của ước ép tỏi tươi hữu hiệu hơn so với nước tỏi pha loãng hay các loại bảo trì khác.

Liều lượng:

  • Tỏi giã nhuyễn: ½ – 2 thìa cà phê (1-2 tép)
  • Nước ép tỏi: ½ – 1 thìa cà phê
  • Dầu tỏi: từ vài giọt tới 2 thìa cà phê
  • Xi-rô: 1-2 thìa cà phê.
  • Rượu tỏi: 1 thìa xúp

Thực hành:

         Liệu pháp Tỏi nên được tiếp tục trong một khoảng thời gian. Khi sử dụng dầu tỏi, nhớ lắc đều trước khi dùng.

 

4. White Pond Lily ((bông) súng trắng)

         Gĩa rễ và lá súng trắng làm thuốc đắp lên chỗ sưng. Nước sắc rễ và lá dùng để nhào trộn các thành phần khác làm thuốc đắp rất tốt. Lượng bột của mỗi thành phần dùng pha trộn bằng nhau với hạt lanh nghiền (flax seed) hay bột du trơn (slippery elm).

5. Cleavers (cỏ có hạt bám vào quần áo) cho bướu ngực:

         Nước cốt cleavers trộn với hạt lanh (flax seed, linseed) dùng để ăn và đắp lên bướu vú; uống 1 muỗng cà phê nước cốt lúc bụng đói vào buổi sáng.

6. Du trơn (Slppery Elm Pack) cho các vấn đề thuộc cơ quan sinh dục – đường tiểu của phụ nữ, u, bướu, v.v.:

         Lấy bột du trơn và lượng nước vừa đủ để làm thành viên thuốc to. Nhào bột cho đến khi khá cứng, lăn tròn có dạng như chiếc đũa, to bằng ngón tay giữa của người bệnh, chiều dài 7,5 cm.  Cắt ra làm 3 miếng,  mỗi miếng dài 2,5 cm. Lấy miếng bọt biển mịn, khâu chỉ cho chắc vào miếng bọt biển này, cho sợi chỉ dư ra 10 cm để kéo. Thoa chung quanh viên bọt biển với vaseline và glycerine (có lượng bằng nhau). Nhúng một viên du trơn vào nước nóng rồi nhét sâu vào trong âm đạo. Tiếp tục với viên thứ hai và thứ ba. Kế đó nhét viên bọt biển đã chuẩn bị vào trong âm đạo để giữ các viên du trơn. Hai ngày sau lấy viên bọt biển ra bằng cách kéo sợi chỉ, dùng ống bơm âm đạo bơm nước dược thảo rửa như nước trà yellow dock, trà neem. Lập lại tiến trình này với viên du trơn, hoặc có thể dùng viên công thức #66 Yellow Dock Combination.]

7. Viên âm đạo (Bolus: Công thức 62- Vaginal Bolus)

         Một trong các chu trình có giá trị trong chương trình chữa bệnh cho phụ nữ là viên âm đạo. Viên này  được đưa vào vùng ruột thẳng. Có hai loại viên âm đạo: loại hòa tan ở nhiệt độ cơ thể và loại để nhét hay đắp. Loại thuốc đắp lên chổ sưng  dùng để hút các chất độc và độc tố, và phá vỡ u nang, các khối u, các tình trạng ung thư ngay cả khi chúng ở xa trong vùng bụng vì viên âm đạo có ảnh hưởng lan rộng, hữu hiệu không những ở âm đạo mà còn với các cơ quan khác như đường ruột hay đường tiểu. Viên rút các chất độc này thường gồm một nhóm các loại thảo dược.

8. Chườm nóng với dầu thầu dầu (Castor Oil Fomentation):

          Để loại bỏ chất nhầy bám chặt trong cơ thể, có thể biểu lộ qua u nang, bướu hoặc polyp, loại chườm nóng sau đây được sử dụng:

          Ngâm một miếng vào len, vải cotton hay vải tã em bé trong dầu thầu dầu, vắt nhẹ để dầu không nhỏ giọt xuống, rồi đắp lên thân mình phía trước, từ cổ xuống tới háng, phủ cả hai bên sườn. Lấy chai nước nóng chườm trên khu vực gan (bên phải phía trên thắt lưng). Lưu ý nước không được nóng qúa trừ phi có thêm một khăn ướt phủ trên khăn dầu. Chườm nóng bằng nước (wet heat) thì tốt nhất. Để tất cả như vậy trong một tiếng rưỡi. Có thể phải đổ  nước nóng mới vào chai vài lần vì nước sẽ nguội đi. Chườm nóng dầu castor ba ngày. Ba ngày kế tiếp, ngày thứ tư đến thứ sáu, dùng dầu olive thoa bóp thân mình đàng trước theo chiều vòng chuyển động về tim 5-10 phút.

         Ngày thứ bảy là ngày nghỉ ngơi, ngưng hết mọi việc của chương trình, chỉ uống nước cả ngày, và cứ mỗi ngày thứ bảy sau đó đều làm như vậy. Vào ngày thứ tám, bắt đầu lại với việc đắp dầu thầu dầu v.v. cùng với chế độ ăn kiêng không chất nhầy, các thảo dược, v.v., cho tới lúc được chữa lành hoàn toàn. Qua việc chườm nóng, dầu thầu  dầu thấm qua da vào tận trong vùng gan, các hạch bạch huyết và bắt đầu kéo chất độc ra để thải ra ngoài, trong khi dầu olive vào trong chữa lành và xây dựng lại mô mới. Tiến trình này cần được thực hiện từ 6 tuần đến 6 tháng để lảm sạch hệ thống, tùy theo bệnh trạng.

9. Chương trình hàng ngày cho các bệnh nan y:

          Chương trình này được sử dụng cho nhiều bệnh khác nhau với thành công lớn trong hầu hết các trường hợp sau đây: đa xơ cứng, loạn dưỡng cơ, đột qụy, xương thoái hóa, cong cột sống, cứng khớp, bướu và u nang ở hâu như tất cả các bộ phận trong cơ thể. Chúng tôi đã thấy những tiến triển đáng kể, giảm đau và sự chữa lành hoàn toàn trong nhiều trường hợp được cho là không chữa được. Từng bước trong chương trình này đều không có hại gì cả mà chỉ tốt cho bạn thôi. Để có nhiều thông tin hơn, xin bạn đọc toàn bộ chương trình dành cho các bệnh nan y (Incurables Program).

10.Viên thuốc âm đạo (vaginal bolus):

         Viên thuốc thảo dược cho phần cuối của hậu môn và âm đạo:

          Đây là một trợ giúp tuyệt vời cho phụ nữ (hay viên thuốc hậu môn cho nam giới) có vấn đề về đường sinh sản. Những viên thảo dược này có những tác dụng như:

         (1) kéo các độc tố và chất độc ra,

         (2) trợ giúp (cùng với thức ăn rau qủa) trong việc chuyển đổi vùng có chức năng bất thường trở thành lành mạnh. Nhờ đó các u nang, bướu, và ung thư sẽ không còn chất cặn bã để ăn hoặc sống còn nữa, bởi vì chúng đều là loại ăn chất thối rữa. Các nhà thảo dược đã khám phá rằng chúng sẽ buông bỏ chỗ của chúng và phân tán, rồi hoặc thoát ra ngoài qua các lỗ (chân lông, đường tiếu,  hậu môn, …) hoặc vào trong máu để được loại trừ đi nếu chương trình được thực hiện cách trung thành.

         (3) Viên thảo dược đặt âm hộ hay hậu môn lan truyền dược chất từ âm đạo và trực tràng đến toàn thể cơ quan tiết niệu và sinh dục. Công thức gồm các phần bằng nhau của các thảo dược sau: squaw vine herbs, slippery elm bark, yellow dock root, comfrey root, marshmallow root, chickweed herb, golden seal root, mullein leaves.

         Tất cả đều ở dạng bột. Dầu dừa cần được làm lỏng để hòa trộn các bột thảo dược cho dẻo. Vo bột dẻo này trong hai bàn tay cho tới lúc thành viện tròn giống bút chì xấp xỉ  bằng kích thước của ngón giữa và mỗi viên dài chừng 2,5 cm. Cho vào tủ lạnh để đông lại. Những viên này sẽ được cho vào âm đạo cùng cách như những viên thuốc đạn nhét hậu môn. Dùng băng vệ sinh để giữ viên thuốc trong âm đạo hay trực tràng.

           Thực hiện trước khi ngủ và để nguyên đêm, 6 đêm một tuần. Dầu dừa sẽ chảy ra ở nhiệt độ cơ thể, để lại chỉ bột thảo dược, và dễ dàng cho thụt rửa. Sáng hôm sau thụt rửa như trình bày dưới đây.

11.Công thức phối hợp Yellow Dock:

         Được dùng phối hợp với việc thực hành trên. Giúp cho các trường hợp sa tử cung, sa ruột, hay sa các cơ quan khác. Để thuyên giảm, nấu trà đậm đặc (công thức #66) bằng cách nấu lửa nhỏ, cho đến khi chỉ còn ½ nước các dược thảo sau:

  • 6 phần White oak bark (vỏ cây sồi trắng)
  • 6 phần Comfrey leaves (lá hoa chuông)
  • 4 phần Yellow dock root (rễ cây chút chít tây)
  • 3 phần Mullein herb (cây bản thảo bông vàng)
  • 3 phần Walnut leaves (lá cây óc chó)
  • 3 phần Marshmallow root (rễ thục quỳ)
  • 1 phần Lobelia (lỗ bình)

         Sau đó dùng một ống xi-lanh để bơm vào âm đạo trong lúc nằm dốc đầu xuống (dùng băng ghế nằm dốc như lúc tập thể dụng bụng, hoặc dùng gối kê mông lên), hoặc bơm ¼ t ới ½  tách hay nhiều hơn vào âm đạo, một tách hay nhiều hơn vào hậu môn. Việc này được dùng để rửa viên đặt âm đạo/hậu môn (#62)  mà bạn đã đặt vào tối hôm trước, và để nuôi các tế bào trong khu vực, cung cấp chất bổ của dược thảo cho tử cung và giúp giải quyết vấn đề sa bộ phận hay trĩ. Cứ giữ nguyên chất lỏng đã bơm vào, bao lâu có thể. Trong khi nằm trên ván nghiêng, nên xoa bóp phần bụng dưới để các cơ bắp hoạt động, giúp chất bổ dưỡng được thấm vào cơ thể nhanh hơn.

         Loại trà trên cũng có thể uống. Lấy ¼ số trà vừa nấu, pha với ¾ tách nước cất, uống 3 lần mỗi ngày.

12.Thuc m đen (black oilment):

         Thuốc mỡ đen của tiến sĩ Christopher có công dụng rút chất độc ra ngoài rất hiệu qủa. Thoa ngoài da các vết loét, bướu, mụn nhọt, mụn cóc, ung thư da, trĩ đã lâu ngày; rất tốt để chữa phỏng và là tác nhân chữa lành. Công thức gồm chaparral, comfrey, red clover blossoms, pine tar, mullein, beeswax, plantain, olive oil, mutton tallow, chickweed, poke root.

13.Có phương pháp tự nhiên nào để loại trừ u xơ không?

         Câu hỏi này được đặt ra trong tờ Tin Thư của tiến sĩ Christopher. Câu trả lời của ông là: Có. Bướu là một chỗ bị sưng phồng lên ở cơ thể, tập trung những tế bào hoặc cơ phát triển không bình thường, sống ký sinh và không bị viêm. Những cơ này phát xuất từ những tế bào của cơ thể nhưng lại phát triển độc lập với cơ thể. Chúng có thể là lành tính hoặc ác tính. Chúng có thể phát triển nhanh chóng hoặc từ từ, và xuất hiện ở các bộ phận cơ thể như những tuyến bạch cầu hoặc hạch, ở vùng cơ quan sinh dục và ổ bụng. Nguyên nhân của bướu là do cơ thể không có khả năng loại trừ những chất độc hại và thường là do thiếu chất potassium hữu cơ trong ẩm thực hàng ngày.

          Để phòng bệnh và chữa ung bướu, cần áp dụng Chương trình Ty đc Ba ngày (Three Day Cleansing Program) của Bs Christopher và Chương trình Ăn kiêng không cht nhầy (Mucusless Diet) của Bs John R. Christopher, giữ cho ruột được sạch sẽ bằng cách dùng thuốc đường ruột Lower Bowel (#37), và hàng ngày uống từ 1 đến 3 cups  nước súp potassium. Cách làm nước súp như sau: gọt lấy vỏ khoai tây dày khoảng ½ inches (khoảng 1,2 cm), lá comfrey (hoa chuông), lá cần tây (celery), cọng cần tây cắt nhỏ, một ít lá cà rốt trồng tại nhà, không phải cà rốt dại), lá củ dền (beet greens), rau mồng tơi Mỹ (spinach greens), tỏi và hành cắt nhỏ, và 4, 5 hạt tiêu đen nguyên hạt (black peppercorns) để làm chất kích thích tiêu hóa. Đổ nước cất vào hỗn hợp này cho tới ngập nước, và đun lửa riu riu. Nếu có thể thì giữ nhiệt độ ở khoảng 130 độ F, trong  thời gian 6 tới 10 giờ. Đừng nấu sôi. Sau đó chắt lấy nước. Thức này để ăn dặm và luôn nhớ nhai kỹ trước khi nuốt.

         Ngoài loại súp kể trên, chúng tôi còn đề nghị uống một hay  nhiều tách trà dâu elderberry. Nếu dùng hoa dâu (elder blossoms) để làm trà uống, thì thêm vào ít lá peppermint (bạc hà cay) để tránh bị nôn.

         Ở vùng bị bướu, dùng công thức có comfrey, còn gọi là công thức Complete Tissue and Bone (Tái Tạo Mô Xương). Nếu chỗ bị bướu thuộc về vùng cơ quan sinh dục, xem các thêm công thức  Female Reproductive (Hệ sinh sản Nữ) , Male Urinary Tract (Đường Tiểu Nam), Hormonal Changease (Cân bằng Hormone). Cũng cần biết đến viên thuốc âm đạo – Vaginal Bolus (Hậu môn), trà Yellow Dock Combination. Bất cứ lúc nào có thể được, đắp dầu castor lên vùng bướu.

14.Chaparral:

         Ủy Ban Nghiên cứu Kelly ở Grapevine, Texas đã hoạt động tích cực trong nghiên cứu ung thư. Sau đây là một tuyên bố liên quan đến Chaparral của Tiến sĩ William Kelly: “Tôi  tìm thấy Chaparral là rất hiệu quả trong 7% trường hợp bệnh ác tính, tuyến tụy và gan cũng như các mô khác trong cơ thể là sự tắc nghẽn các độc tố như thuốc men, thuốc xịt,  thuốc phiện, chất độc kim loại và các chất gây ô nhiễm, đến nỗi những mô này không thể thực hiện hoạt động bình thường. Điều này cản trở sự chuyển hóa các enzyme, vitamin và khoáng chất trong cơ thể. Đặc biệt đối với ung thư, chúng tôi thấy rằng các enzym tuyến tụy bị bế tắc với các độc tố trên và chức năng bị vô hiệu hóa. Bằng cách đào thải (chelating) các độc tố đối kháng khỏi enzymes của tuyến tụy, chúng tôi nhận thấy rằng hoạt động bình thường xẩy ra và hệ miễn nhiễm chiếm được ưu thế sẽ tiêu trừ các bướu ác tính. Đã được tìm ra và Chính phủ Liên bang nên điều tra nghiên cứu cách nghiêm túc rằng Chaparral hoạt động hiệu qủa trong việc đào thải các độc tố ra khỏi cơ thể những người nghiện ma túy.

         Chúng tôi đề nghị bạn nên dùng hai viên Chaparral trước mỗi bữa ăn. Đây dường như là cách hiệu qủa của việc đào thải các độc tố đối kháng trong cơ thể mà những biện pháp khác không thể hoàn thành được.

15.Ung thư – Các khối u và Tẩy lọc cơ thể:

        Ung thư là một bệnh liên quan đến toàn hệ thống của cơ thể. Nó tùy thuộc vào chất bẩn trong đường ruột và trong dòng máu. Sự hiểu biết của chúng tôi về ung thư khác với các bác sĩ khoa phẫu thuật. Chúng tôi hiểu rõ cơ thể có khả năng tẩy lọc hữu hiệu và ngăn chặn việc tái lập lại các độc tố cũ trong khắp cơ thể. Tất cả các hệ bài tiết (kể cả da) phải thực hiện chức năng của chúng. Thực phẩm ăn vào phải tinh khiết.

          Cho dù một người được giải phẫu để lấy khối u ung thư ra, vẫn không được bào đảm rằng ung thư sẽ không trở lại. Đó chính là vì nguyên nhân gây ra bệnh không được xem xét đến.

         “Ung thư” là chữ đáng sợ. Chúng tôi không dùng chữ này mà dùng chữ “tế bào hư hỏng (cell deterioration)”. Điều này giải thích quá trình trong cơ thể cách rõ ràng hơn chữ “ung thư”.
          Có khi, trong khi mổ lấy khối u ra, máu chảy tràn vào trong các phần còn lại của cơ thể. Máu này chứa một số tế bào ung thư. Các bác sĩ đôi khi nói: “Chà, cơ thể sẽ biết cách làm việc trên chúng”. Mendelsohn đề nghị rằng giải phẫu sẽ không cần thiết nếu cơ thể có thể tự chăm sóc cho các tế bào.

         Ứng phó với ung thư qua giải phẫu, hóa trị, gây ra các phản ứng phụ đáng sợ tựa như xem phim kinh hoàng.

         “Chương trình cho các bệnh nan y (Incurables Program)” của chúng tôi dùng phương pháp an toàn, không độc hại để hồi phục lại sức khỏe và năng lực. Phương pháp không dễ dàng như phẫu thuật, vì nó bao gồm cả việc đào tạo lại, phục hồi lại các tế bào hư hỏng quá mức này.

         Từng bộ phận trong con người đều có chức năng riêng và góp phần trong việc làm trơn tru toàn hệ thống của cơ thể. Thật sai lầm khi nghĩ rằng cắt bỏ một bộ phận là một giải pháp thông thường. Giải phẫu thì không thay thế cho việc tẩy lọc và tái tạo lại cơ thể được.

16.Khối u ở tuyến tùng (pineal gland) và tuyến yên (pituitary gland):

         Từ một thư gởi bác sĩ Christopher về một người trong tình trạng hôn mê. Cuối câu trả lời bác sĩ đế cập về chương trình này có thể dùng cách thành công cho người có bướu ở tuyến yến hay tuyến tùng. Câu hỏi như sau: Nếu một người bị hôn mê do do xuất huyết ở vùng thân não, làm thế nào thảo dược có thể giải quyết được?

         Bác sĩ Christopher trả lời: Công thức Tái tạo Mô & Xương (Complete Tissue & Bone) của chúng tôi đã được dùng rất thành công cho những tình trạng này.  

        Ngâm theo tỉ lệ 30 g (1 oz) công thức trong nửa lít nước cất từ 4 đến 6 giờ, sau đó đun nhỏ lửa 30 phút, lọc và đun nhỏ lửa (không cho sôi) lần nữa cho tới lúc còn lại phân nửa. Thêm ¼ lượng glycerine nếu muốn. Ví dụ: Đun nhỏ lửa (không sôi) 4 lít trà xuống còn 2 lít, cho thêm nửa lít glycerine vào.

        Lấy vải cotton trắng hay vật liệu trắng (không dùng vải nhân tạo) nhúng vào trong trà nấu này. Trùm lên đầu như cái mũ, cột hai dây lại dưới cằm để giữ khăn thuốc. Khăn thuốc phủ suốt sống lưng có bề ngạng rộng 10-12 cm. Lấy mũ nylon trùm lên mũ thuốc ở đầu, và miếng nylon phủ trên khăn thuốc ở sống lưng. Đắp thuốc trong 12 tiếng mỗi ngày, giờ giấc tùy theo thuận tiện, lúc ngủ hay ban ngày. Uống 60 ml (1/4 cốc) trà thuốc với 180 ml (3/4 cốc) nước cất. Uống ít nhất 3 lần mỗi ngày. Thực hành toàn bộ chường trình 6 ngày một tuần, tuần này sang tuần khác cho tới lúc lành bệnh.

         Phương pháp này dùng cho các khối u của tuyến tùng và tuyến yên, những khối u này nhỏ dần đi. Một trường hợp, khối u giảm 65% trong 6 tuần, một tháng tiếp theo sau thì hoàn toàn biến mất. Công thức tái tạo Mô & Xương hỗ trợ trong việc tái tạo lại vùng bị xuất huyết với kết qủa đáng ngạc nhiên.

17.Nước trái cây: cà rốt, rau bina (spinach), dứa.

18.Kali hu cơ (Organic Potassium):

         Ung thư khối u rất khó phát triển nếu cơ thể có đủ lượng kali hữu cơ. Còn thuốc black walnut (qủa óc chó) hay elderberry hay những thực phẩm có lượng kali cao hỗ trợ rất tốt. Đường ruột tốt giúp cho việc hấp thu được đúng mức.

19. Mullein & Lobelia:

         Công thức Mullein & Lobelia (Chống sưng tuyến hạch) và Blood Stream (Bổ Lọc Máu) : Công thức Bổ & Lọc Máu và bướu ngực:  Khi có bất cứ vấn đề gì ở vú ngực, càng chữa sớm càng tốt, chúng ta vừa đắp thuốc vùng bướu vừa uống công thức dùng 3 phần mullein và 1 phần lobelia. Nhiều bộ tộc da đỏ dùng poke root đắp bên ngoài để chữa ung thư. Các loại ung thư thường bắt đầu trong dòng máu và chạy lan ra các phần khác của cơ thể. Công thức Bổ & Lọc Máu được dùng để làm sạch máu là đường vận chuyển chất dinh dưỡng cho cơ thể. U nang và khối u sẽ không mọc nơi có đủ luợng potassium. Có thể uống Rượu thuốc Elderberry để tăng lượng potassium cùng với ăn các thực phẩm khác giầu potassium.

20.Khi u tai:

          Nếu đã được chẩn đoán có khối u trong tai, thực hiện chương trình dành cho bệnh nan y cùng với dùng công thức Tái Tạo Mô  Xương. Bướu không thể hình thành khi cơ thể có đủ lượng potassium. Potassium hữu cơ có nhiều trong rượu thuốc black walnut và elderberry. Nước nho và rau xanh cũng là nguồn potassium tốt.

20.Lá bắp cải (cabbage leaves):

          Lá bắp cải khi nấu chín rồi đắp lên các vết loét mãn tính, sẽ làm thuyên giảm và chữa lành các vết loét, cũng giúp chữa các khối u và vết thương.

21.Củ dền đỏ (red beet):

          Củ dền đỏ là thực vật cho nhiều chất dinh dưỡng. Củ là chất kích thích sự thèm ăn, ăn ngon và tiêu hóa dễ dàng. Để điều trị bệnh bạch cầu và các khối u, ăn khoảng 1/2 – 1 kg củ dền tán nhuyễn, tươi sống hàng ngày.

22.Sung, vả (figs):

          Chứa benzaldehyde đã được chứng tỏ là tác nhân chống ung thư rất hiệu quả để giảm một số loại khối u được tìm thấy ở cổ, cổ họng, và hệ thống bạch huyết đặc biệt nơi vòm họng.

23.Thuốc đắp hạt lanh (flaxseed):

           Có lẽ là một trong những ứng dụng nổi tiếng nhất của thảo dược. Hạt xay nhuyễn trộn với nước sôi cho đến khi thành bột nhão. Các loại thảo dược khác có thể được thêm vào tùy tình trạng cụ thể riêng, chẳng hạn như hoa bia (hops), cây thảo bản bông vàng (mullein), v.v. Đây là một trong những thuốc đắp tốt nhất, theo Kloss, dùng cho lở loét, nhọt, cụm nhọt (carbuncles), viêm, và các khối u.

           Thuốc đắp hạt lanh tuyệt vời cho tuyến sưng, khớp, sưng, viêm phổi, viêm màng phổi, bong gân, vết bầm tím, bầm giập, hoặc viêm của bất kỳ phần nào của cơ thể, theo tiến sĩ Shook (ShoA: 182). Đắp càng nóng càng tốt, phủ lên bằng giấy sáp hoặc nhựa, và giữ ấm, thay thuốc đắp nóng khi cần thiết. Nó thuyên giảm những khó chịu và đau đớn, thúc đẩy mưng mủ; lobelia giúp chữa các mụn nhọt. Thuốc đắp hạt lanh  thường được sử dụng cho áp xe và các bệnh cục bộ khác.

 

CHỨNG TỪ:

1.Đi ra vài khối u: một to gần bằng trái bưởi, và vài u nang:

         Khi bác sĩ Christopher đi diễn thuyết các nơi, ông dùng các phòng khám của các thầy thuốc dược thảo chẩn bệnh và giúp một phụ nữ đến gặp ông. Khúc ruột ngang của cô bị sa xuống chạm vào bàng quang ảnh hưởng đến toàn bộ hệ sinh sản. Mỗi khi cô cười, hắt hơi hoặc ho, nước tiểu vãi ra ngoài, làm cô rất xấu hổ. Ngoài ra một bên vú của cô bị nhiễm trùng nặng đến nỗi các bác sĩ  thúc giục cô phải cắt bỏ bên vú đó đi.

         Vì đi thuyết trình và chữa bệnh nhiều nơi, bác sĩ Christopher nói với cô rằng ông chỉ có thể khuyên cô những gì cần làm chứ không thể gặp để hướng dẫn trực tiếp được trong nhiều tháng. Cô đồng ý theo những chỉ thị của ông, và xin được gặp ông khi ông trở lại.

          Bác sĩ Christopher cho cô theo chương trình toàn diện. Cô cần phải:

-tẩy lọc đường ruột với công thức Lower Bowel (Đường ruột),

-tẩy lọc máu với công thức Blood Stream (Bổ & Lọc Máu),

-xây dựng lại các cơ quan sinh sản với công thức Female Reproductive (Hệ sinh sản nữ) và Hormonal Changease (Quân bình nội tiết tố).

         Cô thực hiện toàn chương trình liên tục, cứ 6 ngày thì ngưng một ngày.

         Sáu tháng sau, khi bác sĩ Christopher trở lại, cô gọi để lấy hẹn gặp ông. Lần này bác sĩ thấy cô trẻ ra và tươi cười. Cô nói bây giờ cô đã điểu khiên được đường tiểu tiện, không còn tiểu són nữa. Không còn đau nơi buồng trứng. Cô đi ra được vài viên sạn thận trong ba ngày tẩy lọc. Cô cũng đi ra vài khối u, một bướu to gần bằng qủa bưởi, và vài u nang. Khi cô đi bác sĩ gia đình để kiểm tra, bác sĩ rất ngạc nhiên, bởi vì cơ thể của cô đã tự phục hồi. Vú mà bác sĩ định cắt bỏ nay đã được lành, không còn bị nhiễm trùng. Cô thấy như được sống trong thế giới mới, và cuộc sống đầy ý nghĩa.

         Mặc dù cô được chữa lành cách nhanh chóng và đều đặn, bác sĩ Christopher cho biết rằng các thảo dược không phải lúc nào cũng làm việc cùng lúc và bất ngờ như vậy, nhưng cần phải tự áp dụng và kiên nhẫn chờ đợi kết qủa do nỗ lực của mình.

2.Giảm khối u ở chân:

         Tôi có một cục bướu ở chân, càng ngày càng to ra trong 15 năm. Được chỉ dẫn, tôi thường xuyên dùng miếng bông gòn thấm tinh chất công thức Tai & Thần Kinh (Ear & Nerve) và đắp trên bướu, lấy miếng nylon phủ lên để miếng bông thuốc không bị khô nhanh rồi băng lại.

          Tôi rất ngạc nhiên khi tháo băng ra, chất lỏng trong bướu trào ra. Bây giờ nó đã xẹp hẳn, gần như biến mất. Tôi vui mừng vì thoát khỏi cảnh bị cưa chân. Các bạn có thể hỏi chân tôi có một lỗ sâu khi bướu tan biến chăng? Tôi tin rằng tôi không có ngay cả một vết sẹo nữa.

3. Comfrey:

         Tiến sĩ Charles MacAllister, MD, người nước Anh, quan tâm đến việc sử dụng comfrey như một tác nhân chữa bệnh. Ông đã viết một bài báo trong ấn bản 1896 của Tạp chí phẫu thuật.   Ông đã đưa ra lý thuyết có liên quan đến mạch máu và sự tăng trưởng tế bào bất thường. Khi tiến sĩ MacAllister muốn xem lại bài báo của ông, ông  chú ý một bài viết cùng một vấn đề của giáo sư William Thompson, hiệu trường trường Cao đẳng Hoàng gia của các bác sĩ phẫu thuật ở Ireland. Thompson ghi nhận trường hợp của một người đàn ông đã được chẩn đoán là có một khối u ác tính trên mặt của anh. Bệnh nhân đã trải qua phẫu thuật vòm miệng trong nỗ lực loại bỏ ung thư.

         Một tháng sau, ung thư tái phát. Lần này nó chạy tràn lan khắp đầu của bệnh nhân đến nỗi các bác sĩ giải phẫu phải từ bỏ ý định cắt khối ung thư tái phát này đi. Họ cho  bệnh nhân về nhà. Ba tháng sau bệnh nhân trở lại văn phòng của tiến sĩ Thompson để được khám xét. Giáo sư ghi chú rằng ung thư đã hoàn toàn biến mất. Bệnh nhân nói với tiến sĩ Thompson rằng anh đã đắp comfrey lên chỗ sưng và nó dần dần tan biến đi. Tiến sĩ viết trong bản tường trình rằng mặc dù ông không biết gì về các cách dử dụng comfrey, ông không ngờ rằng comfrey lại có thể làm tiêu trừ  một bướu ác tính như vậy.

         MacAllister được tác đông từ bài viết của Tiến sĩ Thompsons  và bắt đầu tự hỏi thực sự chất gì trong comfrey đã kiểm soát hay làm ổn định sự phát triển của tế bào. Ông bắt đầu một nghiên cứu sâu hơn về comfrey mặc dù ông chưa bao giờ nghe nói về việc sử dụng comfrey như vị thuốc. Bắt đầu với cuốn sách dược khoa từ các thế kỷ trước, MacAllister thấy rằng từ sau giữa thế kỷ XIX, comfrey hay  Symphytum được cho là thuốc chữa bệnh thời cổ xưa không dùng đến nữa. Sau đó ông bắt đầu nghiên cứu thông qua các thảo dược thời cổ đại và trung cổ về lịch sử cách sử dụng comfrey. Có một số giống cây được trồng. Người Turks và Saracens dùng comfrey để chữa lành các thương tích do chiến tranh. Muốn biết thêm về comfrey mà MacAllister khám phá, xin đọc thêm về tài liệu trong newsletter 4-3 (sẽ đăng sau).

Linh Mục Hoàng Minh Thắng và Nhóm Tông Đồ Mục Vụ Sức Khỏe

 

by Tháng Bảy 4, 2012 Comments are Disabled Một số bệnh nan y, Tài liệu Bệnh & Chương trình
Lời dẫn nhập CHƯƠNG TRÌNH CHỮA CÁC BỆNH NAN Y

Lời dẫn nhập CHƯƠNG TRÌNH CHỮA CÁC BỆNH NAN Y

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/06/LoiDanNhapCTchuacacbenhnany1.png        Hiện nay ung thư là căn bệnh giết hại nhiều người nhất trên thế giới. Trong năm 2000 đã có 5,3 triệu nam giới và 4,7 triệu nữ giới bị bệnh ung thư nặng và đã có 6,2 triệu người chết, tức chiếm 12% trên tống số 56  triệu người chết vì mọi lý do.

         Thống kê năm 2008 của Trung tâm quốc tế nghiên cứu ung thư cho biết đã có 7,6 triệu người chết vì bệnh ung thư, tức chiếm 13% tổng số người chết trên toàn thế giới. Trong các chứng ung thư thông thường nhất đứng đầu là ung thư phổi (1,37 triệu), tiếp đến là ung thư dạ dầy (736.000), gan (695.000), ruột già (608.000), vú (458.000) và tử cung (275.000).

         Ung thư là từ tổng quát để gọi một số lớn bệnh  có thể xảy ra cho bất cứ cơ phận nào trong cơ thể con người. Người ta cũng gọi chúng là bướu dữ. Một trong các đặc tính của ung thư là sự phát triển mau chóng của các tế bào bất bình thường lớn lên ngoài ranh giới của chúng và lây lan sang các nơi khác. Chính sự lây lan này là lý do gây tử vong vì ung thư.

         Ung thư bắt nguồn từ một tế bào duy nhất. Sự biến đổi của một tế bào bình thường sang một tế bào ung thư là một tiến trình gồm nhiều giai đoạn, từ giai đoạn bị thương tiền ung thư sang giai đoạn ung thư ác tính.

         Các thay đổi này là hậu quả sự liên tác động giữa các yếu tố di sinh của một người với ba tác nhân từ bên ngoài, trong đó có:

–         Các tác nhân vật lý gây ung thư như nhiễm xạ hồng ngoại tuyến và ion hóa;

–         Các tác nhân hóa chất như chất a-mi-ăng (amiant: một chất gây ung thư, sử dụng nhiều trong tiến trình chế tạo tấm lợp fi-brô xi măng), các hợp chất trong khói thuốc, độc tố trong thực phẩm, độc tố trong nước uống;

–         Các tác nhân sinh học như các nhiễm trùng bởi các loại vi rút,vi khuẩn hoặc ký sinh trùng.

         Ngoài ra, sự già nua cũng là một yếu tố khác gây ra bệnh ung thư. Các trường hợp bị bệnh gia tăng với số tuổi tác, chắc chắn là do sự tích tụ các nguy cơ gây ra ung thư trên các tế bào già nua suy yếu mà khả năng sửa chữa bị giảm thiểu và kém hữu hiệu.

         Vẫn theo thống kê nói trên 30% các trường hợp tử vong ung thư là do năm nguyên nhân sau đây:

– Béo mập quá  ký

– Không ăn rau trái đủ

– Thiếu vận động

– Hút thuốc

– Uống rượu.

         Hút thuốc là lý do của 22% trường hợp tử vong trên toàn thế giới và 71% ung thư phổi.

         Trong thế kỷ XX thuốc lá đã khiến cho 100 triệu người chết vì các chứng ung thư phổi, bệnh phổi mãn tính, bệnh tim mạch và đứt mạch máu não. Một phần tư chết trong lứa tuổi 35-69.

         Hút thuốc cũng có thể gây ra ung thư mũi, miệng, họng, yết hầu, bao tử, gan, thận, máu và cổ tử cung.

         Trong khi đó có 20% tử vong vì các loại vi khuẩn ung thư gan B (HBV), ung thư gan C (HCV) và vi rút  u nhú ở người (HPV) lây từ người sang người. Bảy mươi phần trăm các trường hợp chết vì ung thư thuộc về các nước có mức lợi tức thấp.

         Vào năm 2020 số người bị bệnh ung thư có thể lên tới 15 triệu và số người chết vị các loại ung thư trong năm 2030 sẽ là 13,1 triệu.

         Tại các nước phát triển công nghiệp Tây Âu, ung thư đã trở thành một trong các bệnh đặc thù của các tầng lớp giầu có, ăn uống thừa mứa và có nếp sống cao. Theo bản tường trình về bệnh ung thư trên thế giới do tổ chức Sức Khỏe Thế Giới (OMS) và tổ chức Lương Nông Quốc Tế (FAO) công bố tại Genève ngày 3-4-2003 phân nửa số trường hợp bị bệnh ung thư và số người chết vì ung thư xảy ra tại các nước công nghiệp giầu có. Các nước có nhiều người bị bệnh ung thư nhất là Hoa Kỳ, Italia, Australia, Đức, Hòa Lan, Canada và Pháp. Các nước đang phát triển có ít bệnh ung thư, trong đó có các nước Bắc Phi và Đông Nam Á. Kiểu sống Tây Âu dễ sinh ra bệnh ung thư vì người dân ăn uống quá nhiều chất ngọt, đường, bơ, sữa, thịt và các chất béo động vật, ít vận động, dư thừa năng lượng nên dễ bị mập phì, tiểu đường, các bệnh về tim mạch và ung thư.

         Theo thống kê nói trên, mỗi năm trên thế giới có thêm 1,2 triệu người bị bệnh ung thư phổi; hơn một triệu bị ung thư vú; ruột già 940.000; dạ dầy 870.000; gan 560.000; gáy 470.000; cuống họng 410.000; đầu và gáy 390.000; bọng đái 330.000; u lym-phô ác tính không Hodgkin (malignant non-Hodgkin lymphomas) 290.000; ung thư máu 250.000; ung thư tuyến tiền liệt và ngọc hành 250.000; ung thư lá lách 216.000; ung thư buồng trứng 190.000; ung thư nội mạc tử cung (endometrial) 188.000; ung thư hệ thần kinh 175.000; ung thư da (melanoma) 133.000; ung thư tuyến giáp trạng 123.000; ung thư yết hầu  65.000; ung thư máu ác tính (Hodgkin) 62.000.

         Ba bệnh ung thư khiến cho nhiều người chết nhất là thư phổi 17,8%, ung thư dạ dầy 10,4% và ung thư gan 8,8%. Mỗi năm có 900.000 đàn ông và 330.000 đàn bà bị bệnh ung thư phổi. Nơi nam giới hơn 80% là do hút thuốc. Trong khi nơi nữ giới hút thuốc gây ra bệnh ung thư chiếm 45% toàn thế giới, nhưng hơn 70% tại các nước Bắc Mỹ và Bắc Âu. Trong cả hai giới tuổi bị bệnh ung thư là 40 lên cho tới 70-75.

         Càng ngày càng có nhiều phụ nữ hút thuốc. Tại Hoa Kỳ số phụ nữ chết vì bệnh ung thư phổi nhiều hơn số phụ nữ chết vì ung thư vú. Tại một vài nước như Ailen và Đan Mạch số phụ nữ chết vì ung thư phổi bắt đầu cao hơn số nam giới chết vì hút thuốc. Lý do vì tại nhiều nước Âu châu có tới 50% phụ nữ hút thuốc. Đây sẽ là lý do khiến cho sức khỏe của nữ giới suy giảm trong các thập niên tới.

         Ung thư ruột già và đại kết tràng ít xảy ra tại các nước đang phát triển, nhưng lại là căn bệnh ung thư đứng hàng thứ hai trong các xã hội phát triển công nghiệp giầu có. Mỗi năm có 940.000 người bị bệnh và 500.000 người chết.

         Tuy nhiên các thống kê trên đây chỉ có giá trị tương đối, vì các số liệu chỉ được thu thập tại các nước công nghiệp tiên tiến có hệ thống y tế cao, thường xuyên kiểm soát tình trạng sức khỏe của người dân; còn những gì xảy ra trong các nước nghèo chậm tiến thì ít được biết tới, vì không có thống kê và cũng thường vượt ngoài khả năng kiểm soát của các chính quyền.

         Mặc dù có các kỹ thuật tân tiến hơn trong việc phát hiện ung thư cũng như trong cách chữa trị, nhưng trong nhiều thập niên qua, việc điều trị bằng phương pháp giải phẫu, hóa trị và xạ trị đã không đem lại nhiều kết quả.

         Trong cuộc chiến chống ung thư, chúng chỉ có thể kéo dài cuộc sống của các bệnh nhân trong một thời gian, làm suy yếu các tế bào lành mạnh và tàn phá sức đề kháng của cơ thể, chứ không có khả năng chữa lành và cuối cùng đành bất lực nhìn bệnh nhân chết trong đau đớn tàn tạ.

         Chính vì thế số người chết vì bệnh ung thư trên thế giới chẳng những đã không giảm lại còn gia tăng, vì nhiều lý do, trong đó có thói quen ăn uống không đúng cách vì dùng quá nhiều đường, sữa, thịt và chất béo, lại ăn ít rau trái, các thực phẩm thường không tươi có nhiều chất hóa học hoặc chất bảo quản độc hại. Thêm vào đó là bầu khí ô nhiễm, và kiểu sống ít vận động vv…

         Ngoài ra, cho tới nay chúng ta thường hiểu biết rất ít về dinh dưỡng, và cũng không biết rằng đường, sữa, các loại thực phẩm chế biến từ sữa và thịt đỏ là các thực phẩm tạo thành chất nhầy, là môi trường sống và phát triển mạnh của các vi trùng gây ung thư. Do đó, để tránh hay diệt bệnh ung thư phải thay đổi chế độ ăn uống, cương quyết loại bỏ các thực phẩm tạo ra chất nhầy. Khi đó các vi trùng ung thư sẽ bị bỏ đói, suy yếu đi và chết hoặc bị tiêu diệt bởi các kháng tố do cơ thể chúng ta sản xuất. Ngoài ra, cần uống nhiều nước chưng cất, ăn nhiều rau, trái, cá, đậu và các loại thực phẩm hữu cơ có khả năng cung cấp cho cơ thể lượng chất đạm dinh dưỡng lành mạnh và không tạo ra chất nhầy.

         Để chữa mọi thứ bệnh một cách công hiệu, việc đầu tiên cần làm là tẩy lọc toàn bộ cơ thể, bằng cách theo chương trình ăn chay và tẩy lọc toàn diện 3 ngày. Mỗi ngày uống ½ lít nước mận, 4 lít nước táo ép, 4 lít nước trà cây mâm xôi (raspberry) hay nước chưng cất, và 6 muỗng canh dầu ô liu.

         Khi uống các loại nước cần thực hiện động tác nhai nhiều lần trước khi nuốt, để hạch nước miếng hoạt động mạnh gây tác dụng tốt cho việc tẩy lọc. Có thể theo thời biểu sau đây:

07.30 : uống nhai ½ lít nước mận

08.00 : uống 2 muỗng canh dầu ô liu

08.30 : uống nhai một ly (1/4 lít) nước táo,

09.00 : uống nhai một ly (1/4 llít) trà cây mâm xôi (hay nước chưng cất), cứ luân phiên như thế cho tới tối phải uống nhai hết 4 lít nước táo và 4 lít nước trà raspberry hay nước chưng cất.

12.00 : uống 2 muỗng canh dầu ô liu

12.30 : tiếp tục uống và nhai nước táo, rồi trà raspberry hay nước chưng cất.

16.00 : uống 2 muỗng canh dầu ô liu

16.30 : tiếp tục uống và nhai nước táo, rồi trà raspberry cho tới tối hết 8 lít.

          Trong ba ngày bạn sẽ tống hết chất cholesterol, các thứ cặn bã và độc tố trong cơ thể, cũng như nhiều sạn gan, sạn mật và sạn thận ra ngoài. Sạn thận sẽ tan và ra theo đường tiểu, trong khi cholesterol, sạn gan và sạn mật ra theo đường đại tiện.

         Sau ba-ngày tẩy lọc lần đầu, nếu có ai muốn hoặc có khả năng thực hành thêm, thì càng hữu ích khi ăn chay một đến ba ngày nữa chỉ uống nước chưng cất, tiếp theo một ngày uống nước trái cây, trà raspberry. Sau đó ăn đồ ăn nhẹ và dễ tiêu như cháo, trước khi ăn uống bình thường trở lại.

         Thực hành ba-ngày tẩy lọc hàng tháng hay vài lần mỗi năm là điều rất tốt.

         Đắp dầu thầu dầu (castor) hay dầu dừa, dầu lá neem phần trước thân mình trong suốt ba-ngày tẩy lọc để  gia tăng  việc giải độc, kích thích hệ miễn nhiễm, và  tăng cường lưu thông máu.

         Khi cơ thể sạch các chất cặn bã và độc tố, tiến trình chữa bệnh nan y mới mau hiệu nghiệm, vi khi đó cơ thể hấp thụ các chất dược thảo dễ dàng hơn.

         Cuốn “Chương trình chữa các bệnh nan y” là một loại cẩm nang giúp chúng ta chống lại các bệnh nan y trong đó có các bệnh ung thư thông thường nhất một cách đơn giản nhưng hữu hiệu. Nó bao gồm một số các bài thuốc đã được các bác sĩ John R. Christopher và bác sĩ Richard Schulze sử dụng từ nhiều thập niên qua và đã đạt nhiều thành quả mỹ mãn, hầu như trăm phần trăm. Vì theo kinh nghiệm của các vị, không có thứ bệnh nào mà không chữa trị được. Thiên Chúa đã dựng nên hàng trăm loại dược thảo để giúp con người sống khỏe mạnh và hạnh phúc tràn đầy.

         Khi quyết định theo cách chữa trị này, cần phải theo sát các chỉ dẫn một cách kiên nhẫn và trung thành và bạn sẽ thấy công hiệu của nó.

         Xin cám ơn chị Kim Tuyến và anh Đình Tứ đã bỏ thời giờ và công sức dịch thuật; anh Đình Tứ đã trình bầy bìa và lên trang; anh chị Huỳnh Dũng – Kim Lan lo việc in ấn; các anh các chị trong nhóm Tông Đồ Mục Vụ Sức Khỏe, thân nhân bạn bè và các bệnh nhân đã cổ võ khích lệ.

         Cầu mong cuốn “Chương trình chữa các bệnh nan y” giúp nhiều người thoát các căn bệnh hiểm nghèo và tìm lại được sức khỏe để sống tươi vui hạnh phúc.

Roma 15-6-2012

LM Giuse Hoàng Minh Thắng

 

by Tháng Sáu 27, 2012 1 comment Chương trình cho bệnh nan y
video chứng từ lá nim (neem) tinvuichữalành với bệnh nan y

video chứng từ lá nim (neem) tinvuichữalành với bệnh nan y

Lá nim (neem) tinvuichữalành

với bệnh nan y

Để xem video rõ nét, xin chọn chế độ 480p phía dưới bên phải

by Tháng Sáu 14, 2012 Comments are Disabled Chứng từ Neem