Post Tagged with: "viêm loét dạ dày"

Bắp Cải: Liệu pháp chữa lành (Dr. Christopher)

Bắp Cải: Liệu pháp chữa lành (Dr. Christopher)

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/10/bap-cai.jpg

Dr. Christopher’s School of Natural Healing

KHẢ NĂNG CHỮA LÀNH KỲ DIỆU
NHIỀU LOẠI BỆNH CỦA RAU BẮP CẢI

         Sau khi bạn đọc xong bài này, thì khi ngồi ở bàn ăn lần tới, bạn sẽ nhìn đĩa rau BẮP CẢI (cabbage) với với sự trân trọng và sự hiểu biết về các đặc tính giúp cơ thể tự chữa lành thật không ngờ của bắp cải.

        Tiến sĩ Blanc viết như sau vào năm 1881: “Vào năm 1880, một người đánh xe ngựa ở một làng nhỏ nước Pháp bị ngã xuống đất, và bánh xe cán qua chân anh. Tai nạn này thường xẩy ra vào thời bấy giờ. Hai bác sĩ cho rằng cưa chân là việc cần thiết phải làm. Một bác sĩ giải phẫu được mời đến hội ý, ông đồng ý, và cuộc giải phẫu ấn định vào sáng hôm sau. Nhưng lúc 5 giờ chiều hôm đó, cha sở, Loviat Claude, khuyên mẹ anh lấy lá bắp cải đắp vào chân bị thương cho anh. Hiệu qủa kỳ diệu là anh ngủ ngon suốt đêm. Khi anh vừa thức giấc, cũng là lúc các bác sĩ đến để sửa soạn cho việc cưa chân, họ nhận thấy anh có thể di chuyển chân được. Lớp bắp cải được lấy ra để lộ bắp chân không còn sưng nữa và màu sắc cũng khá hơn. Tám ngày sau, chân anh khỏi hoàn toàn và anh đi làm trở lại.

        Bắp cải thông thường đã góp phần quan trọng cho sự sống của con người hơn 4000 năm. Dược tính của bắp cải, căn cứ trên kinh nghiệm thực tế, có nền tảng khoa học. Hippocrates nói rằng các y bác sĩ không nên ngần ngại theo ý kiến của dân gian những gì hữu ích cho y học. Bây giờ chúng ta biết rằng y học truyền thông dân gian về bắp cải đã đã đứng vững với thời gian và thử nghiệm khoa học.

        Hai báo cáo y học khác sử dụng bắp cải đáng chú ý:

        -Một thợ làm đồng hồ bị nấm eczema ở cả hai bàn tay đau nhức nhiều trong một năm khiến anh không thể làm việc được. Hai bàn tay bị viêm cấp tính, móng tay tách khỏi nền móng, muốn rụng ra. Đắp lá bắp cải cho anh hai lần mỗi ngày, trong vài ngày đã giúp giảm đau, vì dòng nước trong được rút vào trong lớp đắp. Tiếp tục đắp như vậy trong hai tháng, anh được khỏi hẳn.

        -Năm 1875, một ông 75 tuổi bị hoại tử mạch máu ở bắp chân và bàn chân bên phải. Da đã đen lại và phía trước bàn chân đang thối rữa. Người ta dùng lá bắp cải đắp chung quanh chân, da chân đã đổi từ màu đen sang màu nâu rối màu đỏ, sau cùng trở về màu khỏe mạnh tự nhiên. Ba tuần sau, bác sĩ Blanc viết trong hồ sơ là anh đã tiến triển đáng kể.

        Vẫn chưa khám phá vì đâu lá bắp cải có được tính chất chữa lành qúy gía như vậy. Chúng ta chỉ biết rằng lá bắp cải có sức rút máu mủ cách đặc biệt. Nhờ rút ra được chất độc lỏng từ những vùng nhỏ, mà bắp cải đẩy mạnh sự chữa lành và làm liền da, vì vậy ngăn ngừa được các biến chứng phức tạp.

        Thành tích lâu dài trong lịch sử qua việc chữa trị dùng lá bắp cải, với nhiều bệnh khác nhau, từ những thương tích đơn giản đến  phức tạp, đau thấp khớp, đau dây thần kinh mặt, nhức  đầu, loét chân, bệnh than (anthrax), và nhiều bệnh khác. Bắp cải tươi sống trong món salad, nước ép, hoặc hấp, đều có các đặc tính trội vượt hẳn cho rất nhiều loại bệnh khác nhau.

        Hippocrates đặc biệt ưa chuộng rau bắp cải. Khi bệnh nhân bị đau bụng dữ dội, ông liền cho toa ăn một đĩa rau bắp cải luộc với muối.

        Erasistratus dùng bắp cải như phương thuốc hiệu năng để chữa bệnh tê liệt.

        Pythagoras, và triết học gia khác, viết sách, trong đó họ đề cao các tính chất tuyệt vời của bắp cải.

        Cato cho rằng bắp cải chữa trị mọi bệnh; và ông sử dụng nó như là một thuốc chữa bách bệnh để bảo vệ gia đình khỏi các bệnh dịch. Cato cho biết thêm rằng người La Mã suốt trong 600 năm dùng bắp cải mà không cần đến sự trợ giúp nào của thầy thuốc.

        Người La Mã dùng bắp cải để chữa nhiều bệnh nội thương lẫn ngoại thương khác nhau như thuốc xổ, thưốc khử trùng, thuốc đắp. Lính La Mã đắp bắp cải lên vết thương của họ.

        Rembert Dodens, bác sĩ Hà Lan thời Maximilian II, và Rudolph, năm 1557 đã viết trong quyển ‘History of Plants – Lịch sử các loài thực vật’ như sau: 

        “Nước ép bắp cải làm mềm bụng và giúp dễ xổ. Nó làm sạch và chữa trị những vết loét cũ. Nước ép bắp cải trộn với mật ong xi-rô chữa khàn giọng và ho. Lá, khi luộc sơ tái chín đắp trên các vết loét mãn tính (chronic ulcers), làm dịu và chữa lành chúng, và hỗ trợ trong việc làm tan bướu và làm lành các vết thương.

        Các bác si ngành Y ở Paris đã viết vào năm 1829 (Universal Dictionary of Materia Medica): “Bắp cải là một trong các thứ mua dùng có giá trị qúy báu nhất của con người. Nó chống lại bệnh còi do thiếu vitamin C (scurvy), nó ngăn chặn bệnh gút, các lá non mềm được đắp lên các vết thương và hạt trị giun sán.

        Một báctrong những năm của thế kỷ XIX đã phòng ngừa cho ông và gia đình qua nhiều năm chống lại các bệnh dịch mùa đông nhờ ăn rau bắp cải luộc hàng ngày.  Ông đề nghị cách chữa cảm lạnh và viêm thanh quản như sau: 500 g nước ép bắp cải tím, 3 g nghệ, 250 g mật ong và đường, tất cả nấu lên cho thành xi-rô. Mỗi lần uống 1 muỗng canh hòa trong một ly nước trà, ngày 3-4 lần.

         Tiến sĩ Blanc viết: “Bắp cải là liệu pháp chữa trị cho người nghèo, không gì đơn giản hơn bắp cải. Dùng đắp bên ngoài rất dễ, hiệu qủa nhanh chóng và không có hại. Người ta có thể thấy ngay được tận mắt. Các lợi ích rất nhiều, và tôi thách bất cứ ai tìm ra một lý do nào chính đáng cho việc không nên dùng bắp cải trong trị liệu.”

        Việc chuẩn bị bắp cải như sau:

        Rửa lá hoặc ngâm vài phút trong nước được vắt vào một lát chanh. Lau khô, dùng dao hay kéo cắt bỏ phần sườn cứng ở giữa.

        Nếu muốn đắp lên vết loét hay vết thương nhạy cảm: dùng cái chày hay chai nước lăn tròn trên lá cho lá dập ra, nước bắp cải sẽ chảy ra trên mặt, sẵn sàng để đắp. Một, hai hay ba lần đắp tùy theo tình trạng vết thương. Lấy miếng vải dầy phủ lên trên và tiếp tục việc đắp trong vài gìơ, thường là cả đêm, hay suốt ngày nếu đau nhức làm cho không ngủ được.

        Nếu vết loét sưng và ngứa, ngâm lá bắp cải trong dầu dừa, (hay dầu oliu, dầu mè) 30 phút. Việc này sẽ làm dịu mô viêm cũng như chống nhiễm trùng và hỗ trợ việc chữa lành.

        Khi đắp lá bắp cải trên vết thương nhiễm trùng, ung loét, hay nấm eczema rỉ nước nhớ đắp các lớp chồng lên nhau như lợp mái nhà để có chỗ cho máu mủ, chất lỏng chảy ra giữa các lớp. 

        Khi điều trị đau lưng, đau khớp, hoặc các bệnh khác nhau do dây thần kinh hoặc bàng quang, thuốc đắp lá bắp cải giúp thuyên giảm nhanh chóng. Thuốc đắp được chuẩn bị như sau: nấu sôi rồi hạ lửa nhỏ xuống 20 phút 2-4 lá bắp cải với 2 lát hành tây3-4 nắm cám gạo mì với 1 chút nước. Khi nước cạn, cho vào gạc băng và đắp nóng trong 1-2 giờ, hay cả đêm. (Không bao giờ đắp nóng lên vùng bụng đau nhức). Chỉ có bác sĩ mới chần đoán chính xác nguyên nhân của chứng đau bụng này, và đắp nóng lên vùng viêm ruột thừa hay nhiễm trùng buồng trứng có thể có hại).

        Bác sĩ Garnett-Cheney, giáo sư tại Trường Y khoa Stanford, xuất bản một báo cáo liên quan đến việc sử dụng nước ép bắp cải trong điều trị loét dạ dày. Trong 65 trường hợp được báo cáo, có  62 trường hợp được chữa khỏi vào cuối tuần thứ ba. Bắp cải được dùng để chữa bệnh thiếu máu của động vật thí nghiệm gây ra bởi một chế độ ăn uống chỉ dùng sữa.

        Trong nghiên cứu tại Đại học Texas. Tiến sĩ W. Shive chiết xuất từ bắp cải một chất mà ông gọi là Glutamine, hữu ích trong việc điều trị chứng nghiện rượu và loét dạ dày.
 
        Bắp cải có giá trị vô vàn đối với phụ nữ mang thai, cho bệnh nhân thiếu máu, mệt mỏi, nhiễm trùng, bị ký sinh trùng đường ruột, có sạn, và viêm khớp.
 

       Chúng tôi liệt kê một số bệnh mà bắp cải được sử dụng để chữa trị:

Mụn trứng cá : Thoa lên mụn nước ép bắp cải trước nếu muốn, rồi đắp lá bắp cải. Ăn bắp cải hay uống nước ép cũng hữu hiệu.

Nghiện rượu: Ăn bắp cải, hấp chín hoặc ăn sống và uống nước ép bắp cải.

Thiếu máu: Uống một hoặc hai ly nước ép bắp cải mỗi ngày.

Phỏng: Đắp lá bắp cải nghiền trên vùng bị phỏng để giảm đau và gia tăng việc chữa lành.

Xơ gan: Uống nước ép bắp cải và ăn bắp cải sống hoặc hấp chín.

Viêm đại tràng: Đáp 3 hoặc 4 lớp lá bắp cải trên bụng mỗi buổi tối băng lại để không rớt qua đêm. Đồng thời uống nước ép giữa các bữa ăn.

Táo bón: Uống vài ly nước luộc bắp cải mỗi ngày.

Tiêu chảy: Đắp lá bắp cải trên vùng bụng ban ngày, đắp tiếp lớp mới băn đêm và uống nước bắp cải luộc.

Nhức đầu: Đắp lá bắp cải lên trán và sau gáy, để qua đêm. Đáp trên vùng gan cũng có thể là cần thiết.

Côn trùng cắn: Xoa một lá bắp cải nghiền trên vết cắn.

Bệnh thận: Đắp lá bắp cải trên vùng thận suốt đêm và vài giờ trong ngày.

Đau bụng kinh nguyệt: Đắp lá bắp cải trên vùng bụng dưới trong vài giờ.

Bong gân: Buộc 3-4 lá bắp cải dầy chung quang vùng bị bong gân, để suốt đêm.

       Lần tới khi bạn thấy cây bắp cải tầm thường, hãy nhớ rằng nhiều người qua nhiều thế kỷ đã dùng nó để được chữa lành nhiều loại bệnh thể lý.  

GHI CHÚ:

        Bắp cải nếu làm dưa chua không gây bướu cổ, trái lại nó nuôi dưỡng tuyến giáp trạng. Nó giàu vitamin và chất khoáng cần thiết cho tuyến giáp. Thay vì ăn sống nếu làm dưa rau cải sẽ giúp tiêu hóa các chất dinh dưỡng dễ dàng hơn, ngoài ra nó còn làm tăng chất dinh dưỡng lên gấp trăm lần. Nấu chín rau bắp cải cũng loại trừ các tác nhân ảnh hưởng đến tuyến giáp.

Linh Mục Hoàng Minh Thắng và Nhóm Tông Đồ Mục Vụ Sức Khỏe

by Tháng Mười 19, 2012 4 comments Thảo Dược, Thực phẩm chức năng
Công dụng của lá Neem – bài 3

Công dụng của lá Neem – bài 3

RỐI LOẠN TIÊU HÓA (DIGESTIVE DISORDER)

Rối loại tiêu hóa bao gồm những tình trạng làm xáo trộn tiến trình tiêu hóa bằng cách cản trở hay can thiệp vào việc phân hóa hay hấp thu các chất dinh dưỡng. Rối loạn cũng bao gồm những tình trạng khó chịu như ợ chua (heart burn), đau bụng (abdominal pain) hay tiêu chảy (diarrhea).

Y khoa truyền thống Ấn Độ thường dùng neem để điều trị các vết loét và  các  bệnh về dạ dày. Người Ấn Độ thường dùng lá neem để làm thuyên giảm bất cứ rối loạn nào của dạ dày. Các nghiên cứu khoa học đã xác định sự hữu hiệu của neem và tinh chất neem trong chữa trị cho bệnh dạ dày. Neem giúp cho hệ tiêu hóa khỏe mạnh bằng cách bảo vệ dạ dày, hỗ trợ trong việc trừ khử độc tố và vi khuẩn độc hại.

CHỨNG Ợ NÓNG / KHÓ TIÊU (HEARTBURN / INDIGESTION)

Lá neem thường được dùng để điều trị chứng ợ nóng và khó tiêu. Tinh chất lá neem làm giảm lượng axit hydrochloric đậm đặc trong bao tử. Các hợp chất khác có khả năng ức chế prostaglandin cũng có thể tham dự vào việc giảm sự tiết ra axit.

Lúc bắt đầu có triệu chứng khó tiêu, uống một ly trà lá neem mạnh với 5 lá neem cộng với ¼ muỗng caphê gừng và ¼ muỗng cà phê baking soda (sodium bicarbonat dùng trong nấu ăn và thuốc.

LOÉT DẠ DÀY, LOÉT RUỘT TÁ  (PEPTIC ULCERS, DUODENAL ULCERS)

Các vết thương ở trong đường ruột, khi tắm trong axit của dạ dày, gây khó chịu và có thể dẫn đến những vấn đề trầm trọng nếu không được thuyên giảm. Nhờ khám phá nguyên nhân gây loét dạ dày do vi khuẩn Helicobacter pylori hoành hành không kiểm soát được trong đường tiêu hóa, người ta đã tìm ra phương cách chữa trị.

Các hợp chất trong neem đã được chứng minh có hiệu quả chống loét. Khắp Ấn Độ, người ta dùng lá neem để chữa trị cho mọi vấn đề về dạ dày. Đã có một số bằng chứng khoa học về hiệu quả của lá neem đối với những vấn đề này. Uống tinh chất lá neem thúc đẩy nhanh tiến trình chữa lành các vết loét do dư thừa axit trong dạ dày (peptic ulcer) và đau hay loét phần đầu ruột non (duodenal ulcers). Nimbidin từ tinh chất hạt neem khi được uống giúp phòng ngừa loét dạ dày và loét ruột do thuốc aspirin, stress, histamine và các nguyên nhân khác gây ra. Tinh chất lá neem và hạt neem làm giảm lượng axid tiết ra và làm giảm hoạt động của dịch vị. Liều lượng nhẹ (20 – 40 mg / kg) đem lại hiệu quả. Gia tăng liều lượng thực sự lại làm giảm kết qủa. Đặc tính kháng sinh của neem cũng có thể giúp tiêu trừ vi khuẩn gây loét.

Uống trà lá neem sẽ bảo vệ dạ dày và làm giảm sự khó chịu. Để chữa lành tổn thương và vết loét, cần tuân theo chương trình 30 ngày. Giữa các bữa ăn, uống một ly trà lá neem với một muỗng càphê sản phẩm dùng cho chứng khó tiêu có chứa bismuth (kim loại dễ vỡ có màu đỏ xám).

VIÊM DẠ DÀY (GASTRITIS)

Có nhiều triệu chứng giống loét dạ dày, viêm dạ dày là viêm ở đường xếp của màng nhày dạ dày. Nguyên nhân do uống thuốc aspirin, rượu và vi khuẩn Campylobacter. Tinh chất neem làm giảm lượng đậm đặc của axit trong bao tử và có hoạt tính kháng sinh, kháng viêm giúp chữa bệnh.

Khi cần, uống trà lá neem hay nhai lá neem để bảo vệ bao tử và giảm thiểu những khó chịu.

TIÊU CHẢY (DIARRHEA)

Có nhiều nguyên nhân gây tiêu chảy: các chất gây dị ứng (allergens), virut, vi khuẩn hay stress. Hoạt tính kháng virut, kháng trùng và giảm stress của neem cho thấy khả năng trị liệu của neem với bệnh viêm dạ dày.Đối với bệnh tiêu chảy và bệnh lỵ: uống một muỗng canh nước nguyên chất lá neem với đường ba lần một ngày.

TRĨ (HEMORRHOIDS)

Neem giúp phòng ngừa bệnh trĩ bằng cách giúp đi cầu dễ và không bị táo bón.

Nếu đã bị trĩ, thoa kem neem hay tinh chất vỏ cây neem vào trĩ giúp cầm máu và giảm ngứa. Neem có hoạt tính kháng sinh, kháng viêm và giảm đau nên rất thích hợp để chữa bệnh trĩ. Trong thời gian trĩ phát ra, uống trà lá neem hai lần một ngày.

TÁO BÓN

Đối với táo bón, uống 2g hay 3 g bột neem với 3-4 hạt tiêu đen ba lần một ngày vừa là thuốc nhuận tràng vừa làm bớt đau ruột.

RỐI LOẠN THẦN KINH

SỰ CĂNG THẲNG (STRESS)

Tình trạng căng thẳng, cố sức khiến cho cơ thể sản xuất ra hormon adrenaline (làm tim đập nhanh) và cortisol (hormon chính gây stress). Những hormon này tới lúc nào đó làm tăng nhịp tim, tăng áp huyết và tăng sự trao đổi chất của cơ thể (body’s metabolism). Khi tình trạng này kéo dài một thời gian giới hạn nào đó, stress làm giảm khả năng của con người để đương đầu với cuộc sống bình thường. Stress có thể dẫn đến trầm cảm (depression), tim đập nhanh (heart palpitation), và đau nhức cơ bắp.

Khoa học mới đây cho biết neem có thể hữu ích cho việc giảm lo lắng và căng thẳng. Một thử nghiệm đã được thực hiện trên động vật để xét nghiệm khả năng này của neem.

Lá tươi được nghiền nát để ép lấy nước. Thử nghiệm được thực hiện trong hai lần kiểm tra tiêu chuẩn trên 3 nhóm thú.

-Nhóm 1được cho uống nước muối.

-Nhóm 2 uống thuốc giúp thư giãn cơ bắp (Valium).

-Nhóm 3 uống nước chiết xuất lá neem. Nhóm ba lại được chia thành nhiều nhóm uống lượng nước chiết xuất lá neem khác nhau.

*Nhóm 3a với lượng tối đa 200 mg/kg hiệu quả chống stress tương đương hoặc cao hơn Valium.

*Nhóm 3b với lượng lên đến 100 mg/kg cho hiệu quả chống stress bằng với Valium.

*Nhóm 3c uống 800 mg/kg hiệu quả của neem hoàn toàn biến mất.

Neem chiết xuất dường như chỉ làm việc trong liều nhỏ cho ứng dụng này.

Các giải thích về hiệu ứng của cây neem chống stress có thể là khả năng làm tăng lượng serotonin trong não. Điều tuyệt vời là tinh chất neem chỉ đem lại kết quả với số lượng nhỏ. Tính độc đáo này khiến cho tinh chất neem có thể trở nên loại thuốc thay thế an toàn hơn các loại thuốc đang được sử dụng cho stress, các loại thuốc này trở thành nguy hại khi dùng đến một mức cao nào đó.

Một ly trà neem nóng làm căng thẳng được nhẹ đi bằng cách giảm những triệu chứng của stress như tim đập nhanh, áp huyết cao và sự trao đổi chất tăng. Meem giúp giảm nhịp tim nhanh,giảm huyết áp, và làm mềm mại những cơ bắp căng cứng.

CHỨNG MẤT NGỦ (INSOMNIA)

Trầm cảm (depression) và căng thẳng (stress) là nguyên nhân chính của chứng mất ngủ. Neem đã được chứng minh là làm giảm stress và giúp các cơ bắp thư giãn, giúp dễ ngủ. Nimbidin, trong tinh chất lá neem, đã được chứng minh giúp đi vào giấc ngủ nhanh 74% hơn  những loại thuốc ngủ khác.

Một ly trà neem nóng trước khi đi ngủ sẽ giúp thư giãn và dễ ngủ.

ĐAU NHỨC (PAIN)

Khi các tế bào trong cơ thể bị tổn thương, chúng tiết ra một chất hóa học gọi là prostaglandin. Các dây thần kinh cảm giác rất nhạy cảm với hóa chất này, đáp ứng bằng cách truyền tải thông tin đau lên não như đau ở đâu và đau bao nhiêu. Khi uống thuốc giảm đau, như aspirin hay ibubrofen, nó ngăn chặn tế bào tiết ra prostaglandin. Do đó não không nhận được thông tin đau một cách nhanh chóng hay rõ ràng, vì vậy cơn đau trở nên nhẹ hay biến mất.

Tinh chất lá và vỏ cây neem có chứa hợp chất limonoid (và/hay polyaccharide) kiềm chế sự tiết chất prostaglandin mạnh hơn cả axit acetylsalicylic (aspirin) và pethidine hydrochloride. Trong nhiều trường hợp neem hữu hiệu trong việc làm giảm đau trong thời gian dài hơn những hóa chất tiêu chuẩn. Neem cũng giảm hoạt động của hệ thần kinh trung ương, nên cũng giúp giảm đau. Ngoài ra theo một nghiên cứu của N.Khanna, neem tạo ra hiệu ứng giảm đau trên đường truyền ở trung tâm và ngoại biên của dây thần kinh.

Uống một ly trà lá neem đậm (10 lá neem) hai lần mỗi ngày khi thấy đau nhiều sẽ được thuyên giảm. Những hợp chất khác của neem cũng đồng thời hoạt động để làm mạnh và chữa lành cho cơ thể, nhờ đó ngoài giảm triệu chứng đau, còn loại trừ được cả nguyên nhân gây đau, nghĩa là chữa tận gốc.

NHỨC ĐẦU (HEADACHE)

Nhức là hệ quả của căng thẳng, áp lực hay sự kéo căng các lớp bên ngoài của não bộ và từ các mạch máu của da đầu và cơ bắp. Nhiều yếu tố gây ra nhức đầu như thần kinh căng thẳng, thực phẩm gây dị ứng, do rượu và nhức răng. Để giảm nhức đầu, điều trước nất cần làm là nằm nghỉ ngơi, thư giãn, uống thuốc giảm đau nhẹ. Neem chứa những hợp chất tương tự như aspirin để giảm nhức đầu. Neem cũng giúp giảm áp huyết và mở rộng những mạch máu hẹp thường là nguyên nhân của nhức đầu kể cả nhức nửa đầu (migrains).

Theo truyền thống, ăn một hay hai lá neem hay uống trà lá neem để giảm cả hai loại nhức đầu nhẹ hay nhức nửa đầu.

ĐỘNG KINH (EPILEPSY)

Các cơn động kinh là những triệu chứng hoạt động khác thường của não bộ.  Chúng có thể do tổn thương ở đầu, nhiễm trùng não, bướu, đột quỵ (stroke) hay do sự trao đổi chất mất cân bằng (metabolic imbalance) trong cơ thể. Các bệnh truyền nhiễm, sốt, mệt mỏi và căng thẳng có thể làm giảm sự cân bằng giữa sự kích thích và ức chế của não nơi người động kinh.

Một bác sĩ người Phi Luật Tân báo cáo rằng một bệnh nhân với bệnh động kinh không kiểm soát được ăn lá neem trong 30 ngày đã không bị cơn tấn công nào trong 5 tháng sau đó. Những kết qủa này có thể do hiệu quả làm dịu của neem trên hệ thần kinh trung ương hay khả năng tăng cường máu lưu thông qua việc mở rộng các mạch máu.

Ăn một vài lá neem khô hàng ngày giúp chế ngự chứng co giật. Uống tinh chất lá neem hay trà lá neem nếu không có lá nguyên để ăn.PHÁT BAN – NỔI MỀ ĐAY (HIVES – URTICARIA)

Thường có liên quan đến dị ứng da. Mề đay cũng có thể do stress. Histamine từ tế bào da tiết ra làm cho chất dịch này thấm vào các mô ở da. Hợp chất chống histamine (antihistamine) của neem và những hợp chất khác làm dịu hệ thần kinh trung ương chữa trị mề đay trong cả hai trường hợp.

Thoa kem neem lên chỗ da bị mề đay. Nếu không thấy thuyên giảm nhanh chóng thì uống thêm trà lá neem hai lần một ngày.

Kim Tuyến chuyển ngữ

by Tháng Ba 29, 2012 Comments are Disabled Tài liệu Neem