Post Tagged with: "thị kiến"

Valtorta 2

Valtorta 2

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/08/TIN-MUNG-nhu-da-duoc-ven-mo-cho-Toi.jpg

II. Trường hợp tác phẩm ”Bài thơ của Con Người – Thiên Chúa”, hay ”Tin Mừng như đã được vén mở cho tôi” của bà Maria Valtorta”

          Trường hợp tác phẩm của bà Maria Valtorta ”Bài thơ của Con Người-Thiên Chúa” được dịch là ”Tin Mừng như đã được vén mở cho tôi”, bị cấm đọc và phổ biến do lệnh của Thánh Văn Phòng (San’ Ufficio: ngày nay là Bộ Giáo Lý Đức Tin) ký ngày 16 tháng 12 năm 1959; nhưng lệnh cấm này bị bãi bỏ ngày 14 tháng 6 năm 1966.

          Maria Valtorta sinh ngày 14 tháng 3 năm 1897 tại Caserta mạn bắc Napoli và qua đời ngày 12 tháng 10 năm 1961, tại Viareggio, hưởng thọ 64 tuổi. Năm 1920 khi cùng mẹ đi dạo phố Firenze, miền Trung Italia, Maria bị một thanh niên du đãng đánh vào lưng bằng một thanh sắt, phải nằm bất động trong nhà thương ba tháng và phải dưỡng sức hai năm. Kể từ ngày mùng 1 tháng 4 năm 1934 Maria Valtorta phải thường xuyên nằm trên giường. Chính trong tình trạng này Maria nhận được các thị kiến và mạc khải của Chúa Giêsu từ năm 1943 tới 1947 và ít hơn trong năm 1953, và đã tả lại trong 122 cuốn vở dài 15.000 trang. Mặc dù phải nằm trên giường và chịu nhiều đau đớn, nhưng chị đã viết lại một mạch những gì đã thấy đã nghe vào bất cứ giờ nào trong ngày. Hai cuốn sách duy nhất chị có thể tra cứu là Thánh Kinh và Giáo Lý của thánh Pio X.

          Ấn bản tiếng Ý năm 1986 gồm 10 cuốn dầy 5.421 trang chia thành 714 chương. Cuốn I kể lại cuộc đời thơ cấu của Đức Maria và Chúa Giêsu. Các cuốn II-VIII trình thuật ba năm sống công khai của Chúa Giêsu. Cuốn IX kể lại cuộc Khổ Nạn và cuốn X miêu tả các thời gian đầu của Giáo Hội từ biến cố Chúa Phục Sinh cho tới khi Đức Maria hồn xác lên trời.

      1. Lịch sử cuộc tranh luận liên quan tới tác phẩm gồm 4 giai đoạn.

          1) Giai đoạn một: các năm 1944-1959

           Năm 1944, tuy tác phẩm chưa hoàn tất, nhưng Linh Mục Romualdo Migliorini, cha giải tội của Maria Valtorta, thuộc dòng các ”Tôi tớ Đức Maria” bắt đầu đánh máy một số các trình thuật, phân phát và nhấn mạnh chúng được mạc khải, chống lại ý muốn của Maria Valtorta.

          Năm 1946 các bề trên chuyển cha Migliorini từ Viareggio về Roma và xin cha thôi phổ biến các văn bản ấy. Tại Roma cha gặp một trong các anh em cùng dòng là cha Corrado Berti, giáo sư Tín lý và Thần học bí tích tại Phân khoa giáo hoàng thần học của Học Viện Marianum. Cha chia sẻ xác tín của mình và hai vị tìm cách phố biến tác phẩm. Đức Ông Alfonso Carinci, thư ký Bộ các Nghi thức thánh (nay là Bộ Phong thánh) trong các năm 1945-1960 nhận xét về tác phẩm như sau: ”Không có gì trái với các Phúc Âm. Trái lại, tác phẩm này là một bổ túc tuyệt diệu cho Phúc Âm và góp phần vào việc hiểu biết tốt hơn ý nghĩa của nó”.

           Năm 1947 theo lời khuyên của Đức Ông Carinci và Linh Mục Agostino Bea, dòng Tên, Giám đốc Học viên Thánh Kinh Roma, cha giải tội của Đức Giáo Hoàng Pio XII, sau này sẽ trở thành Hồng Y, hai cha Migliorini và Berti đã gửi lên Đức Giáo Hoàng mười cuốn đánh máy của tác phẩm. Đức Pio XII biết chuyện này.

           Ngày 26 tháng 2 năm 1948 Đức Pio XII tiếp kiến hai cha Migliorini và Berti cùng với cha Andrew Cecchin, bề trên của hai vị. Đức Thánh Cha cho biết ngài chấp thuận tác phẩm và khuyên nên công bố trọn vẹn, kể cả các lời tuyên bố rõ ràng đề cập tới các ”thị kiến” và ”đọc cho viết”, nhưng ngài không chấp thuận lời tựa coi đây là một hiện tượng siêu nhiên. Theo lời khuyên của Đức Thánh Cha, bất cứ giải thích nào phải để cho người đọc. Đức Pio XII nói: ”Các cha hãy công bố tác phẩm như nó là. Không có lý do đưa ra một ý kiến về nguồn gốc của nó, ngoại thường hay không. Những người đọc sẽ hiểu”.

          40 năm sau Cha Cecchin sẽ xác nhận lời nói trên đây của Đức Pio XII, được các cha kể lại cho cha Peter Mary Rookey, thuộc tỉnh dòng Chicago. Cha Cecchin cũng cho biết Đức Pio XII xin các cha tìm một Giám Mục để xin phép in ấn. Tất cả các chứng từ này của các cha hiện được lưu giữ trong nhà thờ Truyền Tin của dòng ở Firenze, nơi có mộ của bà Maria Valtorta.

           Năm 1949 yên trí về câu trả lời của Đức Pio XII, hai cha Migliorini và Berti tìm một nhà xuất bản để lo việc in ấn. Sau một thời gian không thành công, hai cha liên lạc với nhà in đa ngữ Vaticăng. Giới chức phụ trách chấp thuận, nhưng phải có phép của Thánh Văn Phòng, ngày nay là Bộ Giáo Lý Đức Tin. Thánh Văn Phòng giao việc này cho Đức Ông Giovanni Pepe và cha Girolamo Berruti, dòng Đaminh. Nhưng việc in ấn bị chặn lại mà không có lời giải thích nào. Không được quyền nói, cha Berti phải ký vào sắc lệnh của Thánh Văn Phóòng cấm công bố tác phẩm và phải giao nộp bản chính. Nhưng cha đã chỉ giao nộp bản chụp.   Năm 1950 tin tưởng nơi lời của Đức Pio XII Maria Valtorta ký giao kèo với hiệp hội xuất bản của ông Michele Pisani dell’isola del Liri. Ông Emilio con của ông Michele, là người có bản quyền các tác phẩm của Maria Valtorta, dấn thân trong việc in ấn và phổ biến tác phẩm. Đức Cha Fontevecchia, Giám Muc địa phương, không có can đảm đọc bản thảo đánh máy dài 4.000 trang nộp để xin phép in. Nhưng Đức Cha đánh giá cao tác phẩm, và sau này khi bị mù ngài nhờ người khác đọc cho ngài nghe.

          Năm 1953 cha Romualdo Migliorini qua đời.

          Năm 1956 theo ý muốn của Maria Valtorta 4 cuốn đầu tiên của tác phẩm được xuất bản vô danh với tựa đề ”Bài thơ của Con Người Thiên Chúa”.

          Ngày mùng 9 tháng 10 năm 1958 Đức Pio XII qua đời. Ngày 28 tháng 10 Đức Gioan XXIII được bầu làm Giáo Hoàng.

          2) Giai đoạn hai: các năm 1959-1966

           Năm 1959 cuốn cuối cùng trong 4 cuốn được công bố. Ngày 16 tháng 12 sắc lệnh cấm phổ biến tác phẩm của Maria Valtorta được ký.

           Ngày mùng 5 tháng 2 năm 1960 Đức Ông Alfonso Carinci qua đời. Ngày hôm sau báo Quan Sát Viên Roma cho đăng sắc lệnh cấm và bình luận sắc lệnh đó với một bài viết vô danh tựa đề ”Một cuộc đời của Đức Giêsu bị tiểu thuyết hóa một cách vụng về”.

           Ngày 12 tháng 10 năm 1961 Maria Valtorta tạ thế. Ngày mùng 1 tháng 12 báo Quan Sát Viên Roma đăng một bài viết kéo dài lệnh cấm ấn bản thứ nhất đối với ấn bản thứ hai của tác phẩm gồm 10 cuốn. Trong cùng tháng cha Berti được Thánh Văn Phòng triệu vời. Trước bầu khí cởi mở hơn của Thánh Văn Phòng, cha kể lại ý kiến của Đức Pio XII đối với tác phẩm hồi năm 1948. Cả ba vị cố vấn của Thánh Bộ là Đức Ông Ugo Lattanzi và hai linh mục Bea và Rocchini đều có lập trường thuận lợi đối với tác phẩm.

           Tháng hai năm 1962 cha Berti trở lại Thánh Bộ bốn lần với một bài tường trình và vài tài liệu do Thánh Bộ đòi hỏi. Cha Marco Giraudo, dòng Đaminh, phó ủy viên Thánh Bộ cho phép miệng: ”Cha hoàn toàn có sự chấp thuận của chúng tôi để tiếp tục công bố ấn bản thứ hai của tác phẩm ”Bài thơ của Con Người Thiên Chúa” của Maria Valtorta. Chúng ta sẽ xem tác phẩm được đón nhận như thế nào”.

           Ngày mùng 3 tháng 6 năm 1963 Đức Gioan XXIII qua đời. Ngày 21 tháng 6 Đức Phaolô VI được bầu làm Giáo Hoàng. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho cha Berti, Đức ông Macchi, bí thư của Đức tân Giáo Hoàng, xác nhận rằng tác phẩm của bà Maria Valtorta không bị cấm.

          3) Giai đoạn ba: các năm 1966-1992

           Ngày 14 tháng 6 năm 1966 lệnh cấm bị hủy bỏ. Tiếp theo tông thư ”Integrae Servandae” định nghĩa vai trò của Bộ Giáo Lý Đức Tin (tên cũ là Thánh Văn Phòng) do Đức Phaolô VI công bố ngày mùng 7 tháng 12 năm 1965, Đức Hồng Y Alfredo Ottaviani, quyền Tổng trưởng Bộ, công bố sắc lệnh hủy bỏ lệnh cấm và việc kiểm duyệt. Sắc lệnh cho biết lệnh cấm vẫn có giá trị luân lý, nhưng ”không còn có sức mạnh của luật giáo hội với các kiểm duyệt liên hệ. Tuy nhiên, Giáo Hội tin tưởng nơi lương tâm trưởng thành của các tín hữu, nhất là của các tác giả, các nhà xuất bản công giáo và của những ai đặc trách việc giáo dục giới trẻ. Giáo Hội đặt để hy vọng vững vàng vào sự lo lắng tỉnh thức của các Giám Mục và các Hội Đồng Giám Mục, có quyền và nhiệm vụ xem xét cũng như phòng ngừa việc công bố các sách có hại, lưu ý và cảnh cáo các tác giả trong trường hợp xảy ra”.

            Ngày 17 tháng giêng năm 1974 Đức Ông Macchi, thư ký riêng của Đức Thánh Cha, gửi thư cho cha Gabriele Roschini, giáo sư Đại học giáo hoàng Laterano, cố vấn Tòa Thánh, để chuyển đến cha các lời chúc mừng của Đức Phaolô VI vì công việc thuận lợi cởi mở của cha đối với tác phẩm của bà Maria Valtorta. Cha Roschini là người thành lập Phân khoa giáo hoàng thần học Marianum.

           Ngày 19 tháng 3 năm 1975 Bộ Giáo Lý Đức Tin công bố sắc lệnh mới liên quan tới sự tỉnh thức của các Chủ Chăn của Giáo Hội đối với các sách đạo (Decretum de Ecclesiae pastorum vigilantia circa libros), và giao cho các Hội Đồng Giám Mục quốc gia hay vùng miền quyền cho phép in ấn các bản dịch Thánh Kinh, các sách phụng vụ, các sách giáo lý và các sách giáo huấn, bổn phận thận trọng của các linh mục và các giáo dân, việc thành lập các ủy ban chuyên môn để cho ý kiến chấp thuận. Tác phẩm của bà Maria Valtorta không vào trong số hạn hẹp này, nhưng không loại bỏ sự thận trọng mục vụ.

           Ngày mùng 8 tháng 12 năm 1978 cha Corrado Berti ký bản thề chứng nhận thời biểu thứ tự các biến cố, kể cả việc hủy bỏ lệnh cấm bằng miệng năm 1961 và sự xác nhận bỏ lệnh cấm năm 1963.

           Năm 1984 mở án phong Chân phước cho cha Gabriele Allegra, dòng Phanxicô, thừa sai và là chuyên viên chú giải kinh thánh. Tờ thông tin Valtorta bắt đầu công bố các ghi chép, các tác phẩm và các thư từ cha trao đổi từ năm 1965 với cha Margiotti, một linh mục cùng dòng, liên quan tới bà Maria Valtorta, mà cha Allegra rất ngưỡng mộ. Cha Allegra đã được Đức Gioan Phaolô II phong Chân phước ngày mùng 7 tháng 8 năm 1995.

           Ngày 31 tháng giêng năm 1985 trong một bức thư gửi Đức Hồng Y Giuseppe Siri, Tổng Giám Mục Genova, Đức Hồng Y Jospeh Ratzinger, Tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin xin Đức Hồng Y Siri trả lời một linh mục thuộc giáo phận Genova hỏi về lập trường của Giáo Hội đối với các tác phẩm của bà Maria Valtorta. Đức Hồng Y Ratzinger đã gửi cho Đức Hồng Y Siri tất cả các tài liệu chính thức của hồ sơ và để tùy ý Đức Hồng Y Siri định liệu. Riêng về phía mình, Đức Hồng Y Ratzinger cho rằng việc phổ biến các tác phẩm này là không thích hợp, không phải vì chúng chứa đựng các sai lầm, nhưng vì ảnh hưởng có thể có đối với các tâm hồn không được chuẩn bị.

           4) Giai đoạn bốn: từ năm 1992 đến nay

          Năm 1992 trước sự hồi sinh của việc chú ý tới tác phẩm của bà Maria Valtorta, Đức Hồng Y Ratzinger xin Đức Tổng Giám Mục Dionigi Tettamanzi, Tổng thư ký Hội Đồng Giám Mục Italia, trực tiếp liên lạc với nhà xuất bản để trong các lần tái bản trong lương lai phải nói rõ là các ”thị kiến” và các ”đọc cho viết” được nói tới trong tác phẩm chỉ là các hình thái văn chương thuần túy được tác giả dùng để kể lai cuộc đời Chúa Giêsu theo cách thức của mình. Chúng không thể được coi như là có nguồn gốc siêu nhiên”.

            Ngày 11 tháng 10 năm 1992 sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo do một ủy ban soạn thảo và do Đức Hồng Y Ratzinger làm chủ tịch, được Đức Gioan Phaolo II công bố. Trong các số 66 và 67 sách Giáo Lý đưa ra luật liên quan tới các mạc khải tư và khẳng định rằng cả khi được Giáo Hội thừa nhận, chúng không được coi như là một bổ túc hay cải tiến Mạc Khải duy nhất, mà chỉ như một trợ giúp: ”Được Huấn Quyền của Giáo Hội hướng dẫn, ý thức của các tín hữu biết phân biệt và tiếp nhận những gì trong các mạc khải này làm thành một lời mời gọi của Chúa Kitô”.

          Năm 1994 nhà xuất bản cho in tác phẩm ”Bài thơ của Con Người Thiên Chúa” dưới tựa đề ban đầu ”Tin Mừng như đã được mạc khải cho tôi” với tên của tác giả Maria Valtorta, mà không đề cập tới nguồn gốc siêu nhiên. Trong Bản thông tin Vatorta năm 1994 nhà xuất bản đã giải thích lý do tại sao lấy lại tựa đề ban đầu của tác phẩm và việc bình thường hóa các liên lạc với giáo quyền.

      2. Các tài liệu tố cáo phê bình hời hợt

          1) Bài bình luận vô danh trên báo Quan Sát Viên Roma

           Ngày mùng 6 tháng giêng năm 1960 báo Quan Sát Viên Roma, cơ quan ngôn luận bán chính thức của Tòa Thánh Vaticăng, đăng một bài viết vô danh bình luận sắc lệnh liệt kê tác phẩm ”Bài thơ của Con Người Thiên Chúa” vào các sách không được đọc, do Thánh Văn Phòng ký ngày 16 tháng 12 năm 1959. Bài viết cho rằng tác phẩm chỉ là ”một cuộc đời Đức Giêsu được tiểu thuyết hóa một cách vụng về” gây nguy hiểm thiêng liêng cho người đọc. Nó đã được in mà không có phép giáo quyền như số 1385 của Giáo Luật đòi buộc. Tiếp đến là một số nhân xét sơ sài về gương mặt của Đức Giêsu, Đức Maria, cũng như nội dung và cách hành văn, và đi đến kết luận là ”tuy có các nhân vật nổi tiếng đã ủng hộ việc công bố”, sự kiện Thánh Bộ công khai lên án là thích hợp, vì đã không vâng lệnh cấm in ấn và phố biến tác phẩm.

            2) Một bài bằng tiếng Anh của Linh Mục Mitch Pacwa, người Mỹ, viết năm 1994 tố cáo tác phẩm có các sai lạc thần học bị nghi là ”lạc giáo”.

           3) Một bài viết của Linh Mục Alain Bandelier đăng trên báo ”Gia Đình Kitô” (Famiglia cristiana) số 1459 ngày 31-12-2005.

           Cả ba tài liệu đều tố cáo các ”sai lầm thần học” nhận ra trong tác phẩm của bà Maria Valtorta. Nhưng đó là các sai lầm ”giả” được hóa giải ngay bởi sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo.

          Chúng cho thấy các đương sự đã không có giờ hay không có can đảm đọc hết tác phẩm với sự thanh thản, khách quan phải có.

           Bạn đọc nào muốn biết chi tiết các tranh luận và phản bác có thể vào google.com Dossier Maria Valtorta.

           Linh Mục Giuse Hoàng Minh Thắng

 

Download TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI 

Viết bởi Maria Valtorta

Dịch gỉa: Nữ tu Phạm Thị Hùng CMR

Quyển 1-Chuẩn Bị.pdf

http://www.mediafire.com/view/?4bcyq77ze4ai2yo 

Quyển 2_Năm I Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?ea5acw4wttbdudd

Quyển 3-Năm II Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?o6gi6p73sk5lrhd

Quyển 4-Năm II Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?s9akma9mmdzdb26

Quyển 5-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?yrq9nq416v5s4dx

Quyển 6-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?8vl7kzjkskplk1b

Quyển 7-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?apbbvph8ndui8m3

Quyển 8-Chuẩn Bị Cuộc Tử Nạn.pdf

http://www.mediafire.com/view/?kbp3i58kizp5ad1

Quyển 9-Cuộc Tử Nạn.pdf

http://www.mediafire.com/view/?txb433uklyoke1x

Quyển 10-Vinh Quang.pdf

http://www.mediafire.com/view/?oln727ghllo7536

by Tháng Tám 24, 2012 Comments are Disabled Cuộc đời Chúa Giê-su (Maria Valtorta)
TIN MỪNG như đã được vén mở cho Tôi – tác giả: Maria Valtorta

TIN MỪNG như đã được vén mở cho Tôi – tác giả: Maria Valtorta

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/08/TIN-MUNG-nhu-da-duoc-ven-mo-cho-Toi.jpg

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/08/rainbow.gif

”Bài thơ của Con Người – Thiên Chúa”
hay ”Tin Mừng như đã được vén mở cho Tôi”:
một tác phẩm độc nhất vô nhị

       ”Bài thơ của Con Người – Thiên Chúa” hay ”Tin Mừng như đã được vén mở cho tôi” của bà Maria Valtorta là một tuyệt tác độc nhất vô nhị trong nền văn chương của Kitô giáo. Tuy không được – hay đúng hơn chưa được – Giáo quyền công nhận là ”mạc khải”, nhưng từ năm 1966 không còn bị cấm đọc và phổ biến nữa.

       Các thị kiến không chỉ bao gồm toàn cuộc đời Chúa Cứu Thế, mà còn trình thuật quãng đời thơ ấu của Mẹ Maria. So sánh với các tác phẩm được mạc khải khác, tác phẩm của bà Maria Valtorta đầy đủ nhất và rất chính xác trong tương quan với bốn Phúc Âm. Các thị kiến đã được viết lại ngay lập tức và một cách trực tiếp sau khi được vén mở.

       Các trình thuật rất trung thực với Phúc Âm, và giúp người đọc hiểu bối cảnh các giáo huấn của Chúa Giêsu với rất nhiều chi tiết súc tích, sống động hấp dẫn. Đặc biệt tác phẩm bao gồm các hiểu biết sự kiện lịch sử, địa lý, trắc địa, địa chất, khoáng chất và phong cảnh chính xác về Thánh Địa, khiến cho các chuyên viên kinh thánh và các học giả phải kinh ngạc.

       Bạn không bị bắt buộc phải tin, vì đây không phải là tín lý. Nhưng cũng đừng bỏ lỡ một cơ hội đọc một tác phẩm hay, và đừng nản lòng vì mấy chục trang dẫn nhập khô khan. Hãy kiên nhẫn vượt thắng nó và hãy đọc tác phẩm với tâm trí rộng mở, không thành kiến, đơn sơ, chân thành, bạn sẽ nếm hưởng được tình yêu bao la của Thiên Chúa Ba Ngôi, sẽ yêu mến Chúa Giêsu, Mẹ Maria, Cha Thánh Giuse nhiều hơn và xót thương nhân loại sâu xa hơn. Và cuộc sống của bạn sẽ được biến đổi.

       Roma 15-8-2012
Lễ Đức Mẹ hồn xác lên Trời
Linh mục Giuse Hoàng minh Thắng
Giáo sư Thánh kinh Đại học Giáo hoàng Urbaniana Roma (1991-2011)

I. Thiên Chúa có ”trăm phương nghìn cách” để biểu lộ tình yêu bao la của Người cho nhân loại

       Trong Thánh Kinh Cựu Ước có một tác phẩm trình bầy tình yêu của con người, tình yêu giữa một thanh niên và một thiếu nữ, một tình yêu với tất cả vẻ đẹp tinh tuyền trong sáng, cũng như sức thu hút, đam mê hấp dẫn và những âu lo kiếm tìm khắc khoải, trong tất cả mọi chiều kích tâm sinh vật thể lý của nó. Tác phẩm đó là sách ”Diễm Ca” thuộc thế kỷ thứ I trước công nguyên. Truyền thống chú giải Do Thái coi đó là hình ảnh tình yêu si mê giữa Thiên Chúa và dân Israel. Còn trong truyền thống Kitô nhiều thần học gia và các giáo phụ giải thích đó là tình yêu giữa Thiên Chúa và linh hồn con người.

        Trước đó nữa vào thế kỷ thứ VIII sách Đệ Nhị Luật đã là tác phẩm kinh thánh trình bầy cả một nền thần học tình yêu. Thiên Chúa yêu thương giải thoát và che chở Israel dân riêng Người chọn, vì thế ơn gọi và cung cách sống của Israel cũng phải là yêu thương: yêu thương Thiên Chúa, yêu thương tha nhân, và yêu thương mọi loài thụ tạo Thiên Chúa đã dựng nên, từ súc vật cho tới cỏ cây và mọi loài thảo mộc.

       Tuy nhiên, chỉ với thánh Gioan chúng ta mới có được định nghĩa thần học rõ ràng ”Thiên Chúa là tình yêu” và là Đấng mạc khải tình yêu. Thánh nhân viết trong chương 4 thứ thứ I: ”Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con Một của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta: (1 Ga 4,7-10).

       Như thế, tình yêu bao la hải hà Thiên Chúa dành cho loài người không chỉ được biểu lộ ra trong công trình tạo dựng, qua đó muôn loài muôn vật đều vén mở cho thấy Đấng Tạo Hóa, mà nhất là được mạc khải trong công trình cứu chuộc, qua chính cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô.

       Tình yêu của Thiên Chúa thiên hình vạn trạng và các mạc khải tình yêu đó cũng thiên hình vạn trạng và vô cùng tận. Vì mọi thụ tạo đều phản ánh quyền năng của Thiên Chúa nên có thể nói có bao nhiêu người, có bao nhiêu thú vật, cỏ cây hoa lá là hay chất liệu trong vũ trụ mênh mông bát ngát này là có bấy nhiêu mạc khải về Thiên Chúa. Tuy nhiên, trong nghĩa hẹp và chuyên môn, việc mạc khải ấy có thể là ”mạc khải công”, nhưng cũng có thể ”mạc khải tư”.

1. Mạc khải công

       Giáo huấn của Giáo Hội phân biệt giữa ”mạc khải công” và ”mạc khải tư”. Giữa hai thực tại không chỉ có sự khác biệt về mức độ, mà cả về bản chất nữa.

       Kiểu nói ”mạc khải công” ám chỉ hành động của Thiên Chúa, được vén mở và dành cho toàn nhân loại, và được ghi chép lại thành văn bản trong Thánh Kinh Cựu Ước và Thánh Kinh Tân Ước. Gọi là ”mạc khải” vì trong đó Thiên Chúa từ từ tỏ lộ ra cho con người cho đến chỗ nhập thể làm người để lôi kéo toàn thế giới tới với Người và hiệp nhất tất cả với Người qua Người Con nhập thể của Người là Đức Giêsu Kitô. Trong Đức Kitô Thiên Chúa đã nói tất cả, nghĩa là đã cho biết chính mình, và vì thế mạc khải đã kết thúc với việc hiện thực mầu nhiệm của Chúa Kitô, như được trình bầy trong Thánh Kinh Tân Ước. Mạc khải công kết thúc với cái chết của vị Tông Đồ cuối cùng. Tuy mạc khải công đã kết thúc, nhưng nó đã không được trình bầy một cách hoàn toàn rõ ràng. Đức tin kitô có nhiệm vụ tiếp nhận từ từ tất cả tầm quan trọng của nó dọc dài các thế kỷ (Giáo Lý Công Giáo, 66). Đó là ý nghĩa lời Chúa Giêsu nói với đoàn môn đệ trong Bữa Tiệc Ly: ”Thầy còn nhiều điều phải nói với các con. Nhưng bây giờ, các con không có sức chịu nổi. Khi nào Thánh Thần sự thật đến, Người sẽ dẫn các con tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho các con biết những điều sẽ xảy đến. Người sẽ tôn vinh thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho các con” (Ga 16,12-14).

2. Mạc khải tư

       Chính trong bối cảnh này chúng ta có thể hiểu ”mạc khải tư” một cách đúng đắn. Số 67 sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo viết: ”Dọc dài các thể kỷ đã có các mạc khải gọi là ”mạc khải tư”, một vài mạc khải đã được quyền bính Giáo Hội thừa nhận… Vai trò của chúng không phải là ”bổ túc” Mạc Khải vĩnh viễn của Chúa Kitô, nhưng để giúp sống nó một cách tràn đầy hơn trong một thời đại lịch sử xác định”.

       Như thế, Giáo Lý của Giáo Hội giúp chúng ta phân biêt hai điều: thứ nhất là uy tín của các mạc khải tư khác với uy tín của mạc khải công. Mạc khải công đòi buộc chúng ta phải tin, vì qua đó Thiên Chúa nói với chúng ta qua các lời của con người và trung gian cộng đoàn sống động của Giáo Hội. Thứ hai, mạc khải tư là một trợ giúp cho lòng tin ấy, và việc thừa nhận của Giáo Hội bao gồm ba yếu tố sau đây: thứ nhất, sứ điệp mạc khải tư ấy không chứa đựng điều gì trái với đức tin và phong hóa tốt lành; thứ hai, được phép công bố nó; và thứ ba tín hữu được phép tin với sự thận trọng. Một sứ điệp như thế có thể là một sự trợ giúp gía trị giúp hiểu và sống Tin Mừng trong bối cảnh ngày nay một cách tốt đẹp hơn. Nó là một sự trợ giúp được cống hiến, nhưng không bắt buộc phải tin. Một mạc khải tư có thể nhấn mạnh vài điểm nào đó, hay làm nảy sinh ra các hình thức đạo đức mới hoặc đào sâu và trải đài các hình thức cổ xưa. Nhưng trong tất cả mọi khía cạnh nó nuôi dưỡng đức tin, đức cây và đức mến, là con đường cứu rỗi đối với tất cả mọi người.

       Các mạc khải tư có thể liên quan tới:

       1) thị kiến về các biến cố trong tương lai (như các bí mật Fatima),

       2) việc chiêm ngưỡng các biến cố qúa khứ (như trường hợp cuộc Khổ Nạn Chúa vén mở cho vài người mang năm dấu thánh Chúa trên mình),

       3) việc giải thích các sự thật thần học đặc biệt (như trường hợp sứ điệp Lộ Đức),

       4) lời khích lệ cá nhân hay cộng đoàn có các cung cách sống phù hợp với sự thánh thiện (như trường hợp các suy niệm của vài vị thần bí).

       Ba hình thức nhận thức hay ”thị kiến”

       1) Thị kiến của các giác quan (thị kiến cảm giác). Các biến cố được nhìn ở bên ngoài không gian. Ai cũng có thể trông thấy (như trường hợp mặt trời quay ở Fatima chẳng hạn). Nhưng các thị kiến này không hoàn toàn khách quan, vì đối tượng được biết qua sự lựa lọc của các giác quan diễn tả nó.

       2) Nhận thức bên trong (thị kiến hình ảnh). Thị kiến này liên quan tới các ”giác quan nội tại”. Linh hồn có được khả năng trông thấy điều không cảm được, không thấy được, nhưng các đối tượng có thật, mặc dù chúng không tùy thuộc thế giới hữu hình bình thường.

       3) Thị kiến tinh thần (thị kiến tri thức). Thị kiến tri thức này không có hình ảnh như xảy ra trong các mức độ cao của thần bí.

       Cho dù thuộc hình thức nào đi nữa, việc giải thích không phải là bổn phận của người được thị kiến, nhưng là của Giáo Hội, là cơ quan có thể lên tiếng về sự trung thực của các mạc khải tư, trong ba cách thức:

       1) Do một chứng thực rõ ràng về tích cách siêu nhiên. Khi đó các mạc khải tư được thừa nhận một cách chính thức.

       2) Do một chứng thực rõ ràng về tính cách không siêu nhiên. Khi đó các mạc khải tư không được chính thức thừa nhận, hay ”bị kết án”.

       3) Do việc không chứng thực tính cách siêu nhiên. Khi đó Giáo Hội không lên tiếng, hoặc vì Giáo Hội chọn không lên tiếng, hoặc vì Giáo Hội cho rằng đây không phải là lúc thích hợp.

       Tuy nhiên, không phải vì một mạc khải tư không được thừa nhận mà không đích thật. Và đôi khi vì lý do tranh luận, người ta cố tình lẫn lộn việc ”không được thừa nhận” với việc ”chưa được thừa nhận”.

3. Các nền tảng lịch sử

       Thánh Kinh Tân Ước kể lại nhiều mạc khải xảy ra sau khi Chúa Kitô về Trời. Chẳng hạn như sự hoán cải của thánh Phaolô như kể trong sách Công Vụ (Cv 9,3-16) hay việc gửi thánh nhân và Barnaba đi truyền giáo (Cv 13,1-3). Chính thánh Phaolô trong thư thứ II gửi tín hữu Côrintô cho biết người đã được nhắc ”lên tầng trời thứ ba”, “lên tận thiên đàng”, nơi thánh nhân  “được nghe những lời khôn tả mà loài người không được phép nói lại” (2 Cr 12,2-4).

       Một truyền thống có từ thời các Tông Đồ, được ghi lại trong một thủ bản thuộc thế kỷ XIII, kể lại việc Đức Trinh Nữ Maria viếng thăm Tông Đồ Giacôbê Cả đi truyền giáo bên Tây Ban Nha. Và đền thánh Đức Mẹ đầu tiên được xây cất là đền thánh Pilar tại Saragozza.

       Tuy nhiên, dọc dài lịch sử Giáo Hội đã có nhiều vị thánh nam nữ nhận được các thị kiến và các mạc khải tư. Khó có thể đưa ra một danh sách đẩy đủ, vì nhiều thị kiến bị lẫn lộn với các vụ Đức Mẹ hiện ra. Trong số các vị được thị kiến có các thánh hay chân phước, tác giả của nhiều tác phẩm, như: thánh nữ Hildegard thành Bingen (1098-1179); thánh nữ Angela nước Boemia qua đời năm 1243; thánh nữ Angela thành Foligno (1248-1309); thánh nữ Gertrude thành Helfta (1256-1302); thánh nữ Brigida nước Thụy Điển (1302-1373); thánh nữ Terexa thành Avila (1515-1582); thánh nữ Maria Madalena de’ Pazzi (1568-1607); nữ chân phước Maria thành Agreda (1602-1665); nữ chân phước Anna Caterina Emmerich (1774-1824); thánh nữ Fausta Kowalska (1905-1938).

       Trong thời đại ngày nay sau Yves Congar và Pierre Adnés, linh mục Gilles Berceville dòng Đaminh ghi nhận sự việc chú ý tới các mạc khải tư tái nảy sinh trong thời Công Đồng Chung Vaticăng II. Trên 56 tác phẩm đề cập tới các mạc khải tư xảy ra trong các năm 1866-1988 do học giả Pierre Adnés duyệt xét có hai phần ba các tác phẩm được viết ra giữa các năm 1937-1965. Chính trong thời gian cuối cùng này xảy ra cuộc tranh luận liên quan tới tác phẩm của bà Maria Valtorta và trường hợp của bà Terexa Neumann.

        LM Giuse Hoàng Minh Thắng

Download TIN MỪNG NHƯ ĐÃ ĐƯỢC VÉN MỞ CHO TÔI 

Viết bởi Maria Valtorta

Dịch gỉa: Nữ tu Phạm Thị Hùng CMR

Quyển 1-Chuẩn Bị.pdf

http://www.mediafire.com/view/?4bcyq77ze4ai2yo 

Quyển 2_Năm I Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?ea5acw4wttbdudd

Quyển 3-Năm II Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?o6gi6p73sk5lrhd

Quyển 4-Năm II Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?s9akma9mmdzdb26

Quyển 5-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?yrq9nq416v5s4dx

Quyển 6-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?8vl7kzjkskplk1b

Quyển 7-Năm III Đời Sống Công Khai.pdf

http://www.mediafire.com/view/?apbbvph8ndui8m3

Quyển 8-Chuẩn Bị Cuộc Tử Nạn.pdf

http://www.mediafire.com/view/?kbp3i58kizp5ad1

Quyển 9-Cuộc Tử Nạn.pdf

http://www.mediafire.com/view/?txb433uklyoke1x

Quyển 10-Vinh Quang.pdf

http://www.mediafire.com/view/?oln727ghllo7536

Xem tiep chuong hai

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/08/rainbow.gif

by Tháng Tám 18, 2012 Comments are Disabled Cuộc đời Chúa Giê-su (Maria Valtorta)