Bấm huyệt

Chứng từ về thuốc Tai & Thần kinh, gia vị Siêu Bổ, trà Thanh Lọc, trà Tái Tạo Mô Xương Sụn từ sơ M. Clara Minh Tâm  SJP

Chứng từ về thuốc Tai & Thần kinh, gia vị Siêu Bổ, trà Thanh Lọc, trà Tái Tạo Mô Xương Sụn từ sơ M. Clara Minh Tâm SJP

Chủ đề: Các chứng từ
Từ: “Thị Minh Tâm Phạm” <[email protected]>
Ngày: Jun 11 09:32PM +0800

Kính gửi đến quý vị,
thêm một số chứng từ về:
thuốc Tai & Thần kinh, gia vị Siêu Bổ, trà Thanh Lọc, thuốc Tái Tạo Mô Xương Sụn
Nữ tu M. Clara Minh Tâm SJP

KHỎI BỆNH ĐỘNG KINH

Con tên Phanxicô Hoàng Ngũ Phúc, thuộc giáo xứ Gia Yên, giáo hạt Gia Kiệm, giáo phận Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai. Con trai của con tên Gioan Hoàng Sơn Lâm, sinh năm 1990. Từ lúc 3 tuổi cháu bị sốt cao và bị co giật. Gia đình đã đưa cháu đi Bệnh viện Nhi Đồng chữa trị, sau 1 tuần bệnh không thuyên giảm, bệnh viện chuyển cháu về Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch vì chẩn đoán cháu bị viêm màng não. Sau 60 ngày chữa trị cháu khỏi bệnh và được xuất viện.

Đến năm 2012, 22 tuổi, cháu bị co giật tái phát, lúc cao điểm một buổi tối cháu co giật đến 4 lần, gia đình đưa cháu đến bệnh viện tâm thần để đo điện não và uống thuốc của bệnh viện được 1 năm, bệnh co giật của cháu vẫn không giảm. Nghe ông BS X chữa giỏi, gia đình đã lấy thuốc của bác sĩ cho cháu uống 5 tháng, bệnh của cháu vẫn chưa thuyên giảm.

Đến tháng 8 năm 2013, con gặp anh Tấn, anh đề nghị con đi học lớp Thiên Khí Năng. Học xong và sau khi có được TKN rồi, con đặt tay chuyền thiên khí năng cho cháu, cho cháu uống thuốc Tai & Thần kinh. Bệnh của cháu thấy giảm bớt dần, nhưng những lúc thời tiết thay đổi, trời chuyển mưa, cháu lại bị co giật, trung bình cứ khoảng 1 tuần cháu bị co giật lại.

Qua Tết Nguyên Đán 2014, con tiếp tục đi học khóa bấm huyệt do sơ hướng dẫn, về nhà con kết hợp bấm huyệt với chuyền thiên khí năng để chữa cho cháu. Từ cuối tháng 3, các cơn co giật giảm dần; cháu chỉ bị sốc và khi vỗ lưng chỉ 1-2 phút sau cháu trở lại bình thường, hết co giật.

Con tiếp tục theo phương pháp bấm huyệt trên mặt và trên các ngón tay, và kết quả ngày càng tốt lên: từ 1 tuần co giật 1 hoặc 2 lần, nay (tháng 6 năm 2014) cơn co giật của cháu đã ngưng hẳn được hơn 2 tháng rồi, không phải dùng thuốc nữa.

Gia đình con tạ ơn Chúa và Mẹ Maria, vì con của con đã được ơn khỏi bệnh.

Từ niềm vui đó, con thêm tin tưởng vào liệu pháp mình đã học, con bắt đầu đi giúp cho bà con lối xóm. Con đã giúp cho một số  người bị bệnh tê bại, xương khớp. Đặc biệt từ ngày 3/6/2014 con đã giúp được 7 người ù và ngãng tai rất nặng, có người đã nghe rất tốt.

Vậy, con có đôi lời chia sẻ để sơ và anh em trong nhóm Thiên Khí Năng mừng, và mạnh dạn lên đường phục vụ những bệnh nhân ở vùng sâu vùng xa

Phanxicô Hoàng Ngũ Phúc


KHỎI Ù TAI VÀ ĐIẾC TAI 20 NĂM

Tôi là Têrêsa Nguyễn thị Sĩ, giáo họ Tân Lạc, giáo xứ Tân Hóa, Bảo Lộc.

Tôi đã bị ù và điếc 20 năm nay rồi.

Nhờ được chuyền thiên khí năng và bấm huyệt trong 3 ngày. Hiện nay tôi không còn ù tai, đã nghe được rồi.

01/05/2014
Nguyễn thị Sĩ

 KHỎI LÃNG TAI BỊ SAU 4 NĂM.

Tôi là Nguyễn văn Bảo, sinh năm 1933, ở tại thôn 2, Naosơri, Lộc Nga, Bảo Lộc – Lâm Đồng.

Tôi bị lãng tai 4 năm nay rồi, nhờ được chuyền thiên khí năng và bấm huyệt, nay tôi đã nghe rõ rồi.

18/4/2014

Nguyễn Văn Bảo

 

ĐỨNG DẬY SAU 3 THÁNG NẰM LIỆT
Nhờ dùng TRÀ TÁI TẠO MÔ XƯƠNG SỤN

Bà Nguyễn thị Bằng ở Kiên Giang bị bại liệt nằm tại chỗ đã 3 tháng.

Chỉ sau 1 tuần dùng trà này Tái Tạo Mô Xương, bà đã thấy người khỏe dần lên, rồi ngồi được, và nay đã đi lại và sinh hoạt bình thường.

Sau hai tháng dùng trà Tái Tạo Mô Xương, bà báo tin đã khỏi bệnh.

Thật không ngờ kết quả quá mau chóng và tốt đẹp như vậy.

 

TRỊ MỠ MÁU, TRIGLYCERIDE (GAN NHIỄM MỠ)
VỚI GIA VỊ SIÊU BỔ

Anh Nguyễn văn Long từ Mỹ về VN đến để thăm tôi và cám ơn về món “GIA VỊ SIÊU BỔ”.

Anh kể rằng: Anh đeo mang căn bệnh này đã hơn 10 năm, đi bác sĩ Mỹ cũng không thuyên giảm, cứ xập xình mãi!

Từ lúc đọc được trên trang mạng tongdomucvusuckhoe.net  về cách làm gia vị siêu bổ, anh đã làm theo và theo lời anh kể: “Con không đợi ngâm 10 ngày, ngâm xong con uống luôn, con ăn luôn cả cái!”. Chỉ trong vòng 2 tuần, đi xét nghiệm lại, mỡ máu, mỡ gan đều trở về chỉ số bình thường”.

Bác sĩ của anh ngạc nhiên quá sức, không hiểu anh đã dùng thuốc gì mà kéo xuống được lượng mỡ cao suốt 10 năm nay như vậy!

 Anh nói: “Con tạ ơn Chúa, cám ơn Đức Ông đã cho đăng các bài thuốc quá hay, chữa lành được cho nhiều người!

Con sẽ làm một chút gì đó để giúp phát triển chương trình Tông Đồ Mục Vụ Sức Khỏe”

 

Ghi chú: 

Để bệnh không tái phát trở lại, các bệnh nhân được dặn dò:

* Nhai súc dầu hằng ngày để loại trừ mầm bệnh độc hại từ răng miệng.

* Nấu ăn, uống dầu dừa hằng ngày.

* Hít thở thiên khí năng thường xuyên mỗi ngày để kiềm hóa cơ thể, giúp ngừa bệnh.

 

 

Âm dương và hệ thống kinh huyệt trong quan niệm đông y

Âm dương và hệ thống kinh huyệt trong quan niệm đông y

Âm dương và hệ thống kinh huyệt
trong quan niệm đông y

 Trong quan niệm của đông y  ý niệm nền tảng về “Âm Dương”, được biểu tượng bằng đồ hình vòng tròn Âm Dương, gồm hai vành nửa đen nửa trắng, với một nhân đen trong phần trắng và một nhân trắng trong phần đen, diễn tả thế quân bình, hòa hợp, thấm nhập, hiệp nhất, không tách rời nhau giữa âm dương.

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2014/06/meridiani.jpg

1.Ý nghĩa

1) Âm diễn tả: bóng tối, mặt trăng, nước, sự thụ động, hướng hạ (đi xuống), nữ giới, sự co thắt, lạnh, mùa đông, bên trong, nặng.

– Các khía cạnh diễn tả âm lực là: xương, gân cốt, phía trước, bên trong thân thể

2) Dương diễn tả: ánh sáng, mặt trời, lửa, hoạt động, hướng thượng (đi lên), nam giới, sự trải rộng, nóng, mùa hạ, bên ngoài, nhẹ.

– Các khía cạnh diễn tả dương lực là: da, lông tóc, sau lưng, bên ngoài thân thể.

Thân thể con người là một tiểu vũ trụ hay tiểu càn khôn tương ứng với đại vũ trụ hay đại càn khôn. Sức khỏe tùy thuộc nơi thế quân bình âm dương trong người. Khi mất thế quân bình, quá nhiều âm hay quá nhiều dương là sinh bệnh tật. Tái lập thế quân bình âm dương là hết bệnh.

2.Năm nguyên tắc của Âm Dương

1) Mọi vật đều có khía cạnh âm và khía cạnh dương.

2) Mỗi khía cạnh âm dương đều có thể chia thành một cặp khía cạnh âm dương khác.

3) Âm dương tùy thuộc nhau, và không có ý nghĩa nếu không có nhau.

4) Âm dương kiểm soát lẫn nhau. Nơi đâu âm yếu, thì dương mạnh, và ngược lại. Nơi đâu có quá nhiều âm, thì dương sẽ gây ra vấn đề sức khỏe, và ngược lại.

5) Dưới một vài trạng thái âm có thể biến thành dương và dương có thể biến thành âm.

Nhiệt độ là cách biểu lộ âm dương ý nghĩa nhất trong đông y: âm lạnh, dương nóng. Từ trong ra ngoài, từ dưới lên trên, từ co thắt tới nở ra là các cực âm dương khác được dùng để miêu tả tình trạng sức khỏe của con người. Châm cứu là dương liệu pháp vì tác động từ ngoài vào trong. Trong khi thảo dược là âm liệu pháp, vì tác động ở bên trong. Vì âm dương có thể biến đổi với nhau nên một bệnh có thể bao gồm cả hai khía cạnh: điển hình là trường hợp sốt nóng lạnh.

3. Các cơ phận hay lục phủ ngũ tạng trong con người được phân chia thành các cơ phận âm hay cơ phận dương, và có các đường kinh âm hay dương chạy ngang qua.

Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người cách tài tình khiến cho thân thể con người là một từ trường âm dương:

– bên ngoài là dương bên trong là âm,

– phía sau là dương phía trước là âm,

– bên trên là dương bên dưới là âm.

Cấu trúc âm dương này được áp dụng cho mọi phần trong thân thể con người. Trong nghĩa đó:

– phía ngoài hai cánh tay là dương, phía trong hai cánh tay là âm,

– phía ngoài hai đùi và bắp chân từ hông xuống dưới bàn chân là dương, phía trong là âm,

– phía sau lưng là dương, phía trước bụng là âm,

– đỉnh đầu là dương, dưới đít là âm,

– hai mu bàn tay và hai mu bàn chân là dương, hai lòng bàn tay hai lòng bàn chân là âm.

– Thận, gan, lá lách, phổi, tim là các cơ phận âm.

– Bọng đái, mật, dạ dầy, ruột non, ruột già là các cơ phận dương.

Các cơ phận âm-dương đi từng đôi song song với nhau như sau:

– Thận / Bọng đái

– Gan / Mật

– Lá lách / Dạ dầy

– Phổi / Ruột già

– Tim / Ruột non.

Mười đường kinh chạy dọc theo mười đầu ngón chân, mười đầu ngón tay và thân thể con người phía trước cũng như phía sau đều đi ngang qua các cơ phận nói trên cũng chia thành các mạch lạc li ti khác nối liền với mọi vùng và tế bào trong thân thể con người.

– 5 kinh âm là: Thận kinh, Can kinh, Tỳ kinh, Phế kinh, Tâm kinh.

– 5 kinh dương là: Bàng quang kinh, Đởm kinh, Vị kinh, Đại tràng kinh và Tiểu tràng kinh.

Cộng với 4 đường kinh mạch khác

– Mạch đốc (Dương mạch) chạy dọc sau lưng từ đỉnh đầu xuống tới hậu môn

– Mạch nhâm (Âm mạch) chạy dọc trước bụng từ dưới cằm xuống bụng dưới.

– Tâm bào lạc (âm)

– Tam tiêu (dương)

12 kinh mạch ấy xuyên qua mọi cơ phận con người phía trước cũng như phía sau và hoạt động mạnh trong một số giờ trong ngày:

1. Thủ thái âm Phế kinh gồm 11 huyệt (3-5 giờ sáng).

2. Thủ dương minh Đại trường kinh gồm 20 huyệt (5-7 giờ sáng).

3. Túc dương minh Vị kinh gồm 45 huyệt (7-9 giờ sáng).

4. Túc thái âm Tỳ kinh gồm 21 huyệt (9-11 giờ sáng).

5. Thủ thiếu âm Tâm kinh gồm 9 huyệt (11 giờ sáng tới 1 giờ chiều).

6. Thủ thái dương Tiểu trường kinh gồm 19 huyệt (1-3 giờ chiều).

7. Túc thái dương Bàng quang kinh gồm 67 huyệt (3-5 giờ chiều).

8. Túc thiếu âm Thận kinh gồm 27 huyệt (5-7 giờ chiều).

9. Thủ quyết âm Tâm bào lạc kinh gồm 9 huyệt (7-9 giờ tối).

10. Thủ thiếu dương Tam tiêu kinh gồm 23 huyệt (9-11 giờ tối).

11. Túc thiếu dương Đởm kinh gồm 44 huyệt (11 giờ tối – 1 giờ sáng).

12. Túc khuyết âm Can kinh gồm 14 huyệt (1-3 giờ sáng).

13. Dẫn Mạch (Nhâm Mạch) âm gồm 24 huyệt.

14. Đốc Mạch dương gồm 28 huyệt.

Tất cả gồm 361 huyệt.

– Dẫn Mạch âm (hay Nhâm Mạch) và Đốc Mạch dương chạy dọc phía trước bụng và sau lưng đối nhau.

– 12 đường kinh cứ song song từng cặp âm dương đối nhau trên tay (thủ) và trên chân (túc).

Ngoài ra còn có 6 kinh mạch nối liền nhiều huyệt thuộc các đường kinh khác nhau

1. Kinh mạch Xung gồm 13 huyệt.

2. Kinh mạch Đái gồm 3 huyệt.

3. Kinh mạch Âm kiêu gồm 6 huyệt.

4. Kinh mạch Dương kiêu gồm 12 huyệt.

5. Kinh mạch Âm duy gồm 7 huyệt.

6. Kinh mạch Dương duy gồm 14 huyệt.

Tổng cộng gồm 55 huyệt. Như thế tất cả có 416 huyệt.

Ngoài ra còn có 40 Kỳ Huyệt cũng thường được sử dụng để chữa bệnh.

Thuật châm cứu dùng kim hay đốt lá ngải cứu tác động trên một số các huyệt đạo chính của 20 đường kinh mạch kể trên.

Bấm huyệt (digitopressione) cũng theo cùng các nguyên tắc này, nhưng chỉ dùng ngón tay hay một vài dụng cụ thay thế ngón tay để tác động trên các huyệt đạo.

– Nó dễ và ít nguy hiểm hơn châm cứu.

– Nhiều khi tác động mau và hữu hiệu hơn châm cứu.

Đặc biệt khi có thiên khí năng mà chữa bệnh bằng phản xạ học và bấm huyệt lại càng có tác dụng mau và công hiệu hơn nữa, vì khí năng được chuyền vào các vùng phản xạ, kinh mạch và huyệt đạo, tác động trực tiếp trên các cơ phận bị suy yếu hay có bệnh.

Linh Mục Giuse Hoàng Minh Thắng 

Tự  chữa bệnh bằng Thiên Khí Năng chương 5

by Tháng Sáu 13, 2014 1 comment Bấm huyệt
3 video: hai chứng từ chữa bệnh mắt 20 năm – chữa tê, đau cột sống và chân – 10 phút khỏi nhức đầu của khóa Dưỡng Sinh  ngày 16-17-18.05.2014 tại Đức quốc

3 video: hai chứng từ chữa bệnh mắt 20 năm – chữa tê, đau cột sống và chân – 10 phút khỏi nhức đầu của khóa Dưỡng Sinh ngày 16-17-18.05.2014 tại Đức quốc

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2014/05/KHOA-THIEN-KHI-NANG-MG-1.jpg
xem hình ảnh và phóng sự

—– Original Nachricht —-
Von:     [email protected]
An:      [email protected], [email protected]
Datum:   23.05.2014 16:03
Betreff: W.: Khoa hoc Duong Sinh “THIEN KHI NANG” trong 3 ngay tai Duc duoi su  huong dan cua D.O. Jos.Hoang Minh Thang den tu Roma.
Do Hoi Bac Ai Vincent  de Paul Moenchengladbach to chuc  nhung ngay 16-17-18.05.2014

Kinh goi:  D.o. Jos Hoang Minh Thang, quy Sr. cung Quy anh chi Thien nguyen Vien Tong do Muc vu Thien khi nang Duong Sinh.

De kinh tuong.
Nguyen van Ri

2 chứng từ chữa bệnh mắt trên 20 năm

Bấm Huyệt chữa tê chân – đau lưng lâu năm

Chuyền thiên khí năng 10′ chữa cháu Phúc hết nhức đầu

10 video clips đầu tiên trong khoá Dưỡng Sinh tại Trung tâm Tĩnh tâm Lê thị Thành, Houston, Texas, Hoa Kỳ, từ 3 đến 6/4, 2014

10 video clips đầu tiên trong khoá Dưỡng Sinh tại Trung tâm Tĩnh tâm Lê thị Thành, Houston, Texas, Hoa Kỳ, từ 3 đến 6/4, 2014

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2014/05/Duong-Sinh-Houston-3-6.4.2014.jpg

On Saturday, May 3, 2014 4:58 PM, HOI TU THIEN HONG AN <htthong…@gmail.com> wrote:

Kính thưa Đức Ông và mọi người,

Con xin gởi 10 video clips đầu tiên của Khoá Dưỡng sinh Houston.
Khoá này đặc biệt quá vì chưa khóa nào mà các tham dự viên được dồi dào “Thiên Khí Năng” đến mức độ làm… cháy nhà như khóa của chúng con!  Chúng con vẫn thấy ấm ức vì khoá 4 ngày mà mới xong được 2 ngày đã phải kết thúc, nhưng khi coi lại tất cả các đoạn video được thâu, thì con thấy đây là 1 nguồn tài liệu quá phong phú, rất nhiều chi tiết để học hỏi.  Vì thế, chúng con xin chia sẻ với mọi người đây.

Đây mới là ½ số clips chúng con đưa lên youtube.
Chúng con còn đang làm dần dần; phần của Đức Ông còn 2, 3 cái; rồi đến clips của chị Kim Tuyến về Dược Thảo, của cha Việt về Đông Y, của thầy Hoá về Bấm Huyệt Thập Chỉ Đạo.  Số ½ còn lại này chúng con sẽ làm từ từ trong tuần tới rồi gởi đến cho mọi người sau.

Xin Thiên Chúa luôn đồng hành với chúng ta.

HỘI TỪ THIỆN HỒNG ÂN
Xin kính chúc quý vị một ngày bình an.

1. Khoá Dưỡng Sinh, Thiên Khí Năng, Âm Dương với Đông Y

2. Tập Hít Thở Thiên Khí Năng

3. Bài giảng: “Ơn Gọi Sống Mạnh Khoẻ, Hạnh Phúc”

4. Thiên khí năng, lá Neem, Iodine, Magnesium

5. Thiên khí năng + 66 Công thức Dược thảo

6. Thiên khí năng trị nhức đầu, đau nhức

7. Thiên khí năng trị mắt mờ, mỏi mắt

8.  Thiên khí năng chữa bệnh Stroke, Trà ớt, Công thức Gia vị Siêu Bổ

9. Thiên khí năng trị Đau Nhức, Cảm Lạnh, Sinus,…

10.  TKN, Tập Thể dục Dưỡng sinh, Dịch Cân Kinh

by Tháng Năm 4, 2014 Comments are Disabled Bấm huyệt, Thiên Khí Năng, Tông đồ sức khỏe
Bấm huyệt, Thoa bóp phản xạ học

Bấm huyệt, Thoa bóp phản xạ học

Bấm huyệt, thoa bóp phản xạ học và châm cứu

1.Thịnh hành bên Ai Cập và Trung Hoa

       Bấm huyệt, thoa bóp phản xạ học và châm cứu là ba phương thức chữa bệnh cổ xưa nhất trong lịch sử nhân loại.

       Chúng là các thuật chữa bệnh đã được người Ai Cập vàTrung Hoa sử dụng từ nhiều thế kỷ trước công nguyên.

       Tại Saqqara bên Ai Cập, các nhà khảo cổ đã khám phá ra một bức vẽ trên tường mộ của một danh y sống vào khoảng năm 2.300 trước công nguyên. Bức tranh diễn tả hai cảnh: cảnh thứ nhất là một người đang bấm huyệt trên ngón cái chân phải của một người khác; và cảnh thứ hai là một người đang bấm huyệt trên ngón cái tay trái cho một người khác. Bên trên bức hình bốn người là văn bản gồm các chữ tượng hình trong chữ viết của Ai Cập giải thích ý nghĩa và mục đích của kiểu chữa bệnh bấm huyệt này. Các hình kim tự tháp biểu tượng cho năng lực; con chim cú diễn tả sự khôn ngoan và sự hiểu cao biết rộng; ba con chim mầu trắng diễn tả niềm an bình, sức khỏe và sự thịnh vượng. Bên cạnh đó là nhiều dụng cụ khác nhau, mà các bác sĩ thời xưa dùng để giải phẫu. Bức tranh diễn tả sống động việc dùng phương pháp bấm huyệt và thoa bóp phản xạ học để chữa bệnh. Hơn bốn ngàn năm đã qua đi, nhưng kiểu bấm huyệt chữa bệnh vẫn theo cùng một nguyên tắc: đó là tác động trên các huyệt đạo và hệ kinh mạch để đả thông khiến cho khí huyết lưu thông điều hòa, vì thế giảm đau và trị bệnh.

       Cùng với thuật bấm huyệt và thuật thoa bóp phản xạ học, người Trung Hoa còn dùng phương pháp châm cứu nữa. Danh y Vương Uy, sống vào thế kỷ thứ IV trước công nguyên, dùng kim châm vào thân thể người bệnh, trước khi dùng ngón tay cái nhấn mạnh trên bàn chân của bệnh nhân, nhấn đi nhấn lại cho tới khi nào đạt mục đích chữa trị mới thôi. Hiệu qủa đó kéo dài, khi ngón tay còn ấn và giải thoát năng lực chữa trị trong thân thể người bệnh.

       Sự kiện này chứng minh cho thấy từ mấy ngàn năm trước công nguyên người Ai Cập và người Trung Hoa đã biết chữa bệnh bằng bấm huyệt, phản xạ học và tiếp đến là châm cứu. Ba nghệ thuật chữa bệnh nổi tiếng này hiện được phổ biến rộng rãi tại nhiều nơi trên thế giới. Nhưng trong nhiều thế kỷ chúng đã không được biết tới hay bị lãng quên, và cả ngày nay nữa mới chỉ có châm cứu là được y khoa Tây phương chính thức nhìn nhận. Trong khi bấm huyệt và thoa bóp phản xa học vẫn chưa được chính thức thừa nhận, tuy thường khi chúng có công hiệu tức khắc, nhanh chóng hơn cả châm cứu.

       Riêng việc thoa bóp có lẽ đã có từ khi con người hiện diện trên trái đất này, vì nó là cử chỉ phản xạ đầu tiên của con người, khi bị đau nhức vì bất cứ lý do gì. Đó là nguồn gốc của khoa phản xạ học sẽ được Tây Phương nghiên cứu, khai triển, hệ thống hóa và phổ biến sau này.

2.Thoa bóp phản xạ học được tái khám phá và phổ biến bên Hoa Kỳ

       Bên Tây Âu thuật thoa bóp phản xạ học đã được bác sĩ Mỹ William H. Fitzgerald nghiên cứu và phố biến hồi đầu tiền bán thế kỷ XIX. Bác sĩ Fitzgerald tốt nghiệp đại học Vermont, làm việc tại nhà thương thành phố Boston và Trung tâm nhà thương Mũi Họng thành phố London. Ông cũng làm việc hai năm tại Vienne, thủ đô nước Áo, rồi sau đó trở lại làm việc ở nhà thương St. Francis tại Hartford, bang Connecticut như là bác sĩ trưởng ngành giải phẫu tai mũi họng. Là thành viên của hầu hết các Hiệp Hội bác sĩ Mỹ thời đó, năm 1913 bác sĩ Fitzgerald bắt đầu lôi kéo sự chú ý của giới y khoa với bài thuyết trình về phản xạ học, mà ông gọi là “phương pháp chữa trị vùng”.

       Bác sĩ Fitzgerald chia thân thể con người thành 10 vùng năng lượng theo hàng dọc, mỗi bên 5 đường. Năm đường năng lượng đó bắt đầu từ các ngón chân và các ngón tay chạy dọc lên cho tới đầu. Bác sĩ nhận thấy khi dùng ngón tay hay vật gì đó ấn trên các vùng khác nhau của thân thể, ông có thể làm cho hết đau nhức, hay khiến cho phần thân thể tương ứng bị tê. Cùng với hai bác sĩ Edwin Bowers và George Starr White ở Los Angeles bang California, bác sĩ Fitzgerald phổ biến phương pháp trị liệu hữu hiệu này trong giới y học cũng như trong dân chúng. Trong số các bác sĩ nhiệt liệt ủng hộ bác sĩ Fitzgerald có bác sĩ Joe Shelby Riley. Trong một cuộc đàm đạo tình cờ với nữ bác sĩ Eunice D. Ingham, chuyên viên vật lý trị liệu tại nhà thương St. Petersburg ở Tampa Bay, tiểu bang Florida, ông đã hoàn toàn thay đổi hướng đi của bà. Nữ bác sĩ Ingham rất hứng khởi trước các kết qủa phi thường của khoa phản xạ học, nên đã áp dụng nó trong việc chữa trị các bệnh nhân của bà. Bà nhận thấy các đau đớn của bệnh nhân giảm ngay, họ có thể cử động tay chân dễ dàng; và khi áp dụng phương pháp phản xạ học cho các bệnh nhân sau khi họ được giải phẫu, việc lành bệnh tự nhiên tiến triển rất mau.

       Các kết qủa khả quan khiến cho bà ngạc nhiên tới độ năm 1930 bà từ chức bác sĩ tại nhà thương St. Petersburg để mở phòng mạch riêng. Tiếng tăm của bà lan rất nhanh trên toàn nước Mỹ, và có rất đông người tới xin chữa bệnh. Sau đó bà bắt đầu viết cuốn sách đầu tiên về khoa phản xạ học, trước khi mở trường dậy về ngành này và qua đời năm 1952. Trong số các học trò giỏi của bà có bà Mildred Carter, tác giả ba cuốn sách bán rất chạy tại Hoa Kỳ là: “Phản xạ học thân mình. Chữa lành với các ngón tay của bạn”; “Hãy tự chữa cho bạn với Phản xạ học chân”; “Phản xạ học tay. Chìa khóa cho sức khỏe toàn hảo”. Bác sĩ Mildred Carter đã viết ba cuốn sách này với sự cộng tác của con gái là bác sĩ Tammy Weber. Cùng với cuốn “Bấm huyệt, cơ thể, phản xạ học và sinh lực” của Madeleine Turgeon, bộ sách ba cuốn này được xử dụng như tài liệu căn bản cho phần trình bầy về phản xạ học trong loạt sách “Thuật Dưỡng Sinh”. Tại các nước châu Âu nghành phản xạ học xem ra ít được biết tới hay được phố biến rất hạn hẹp giữa một số các chuyên viên vật lý trị liệu. Tâm thức tin tưởng vào các loại thuốc hóa chất, ảnh hưởng to lớn và các lợi lộc khổng lồ của kỹ nghệ dược khoa là các lý do chính ngăn cản sự phát triển của ngành phản xạ học và các kiểu chữa trị khác không cần tới thuốc, trong đó có cả thuật bấm huyệt, châm cứu và thiên khí năng.

3. Những kết quả “thần hiệu” của phản xạ học

       Khi được áp dụng đúng đắn, phản xạ học đem lại những kết qủa “thần hiệu” và là một nghệ thuật dưỡng sinh tuyệt diệu.

        – Điều tuyệt diệu thứ nhất: đó là bạn là bác sĩ của chính mình, của bạn bè thân thuộc và tất cả những ai có bệnh, muốn được giúp đỡ.

       – Điều tuyệt diệu thứ hai: đó là bạn” không cần phải dùng đến bất cứ thứ thuốc nào, cũng không cần phải kiêng cữ gì đặc biệt.

       – Điều tuyệt diệu thứ ba: đó là ai cũng có thể làm được và có thể áp dụng cho mọi lứa tuổi: trẻ em, người lớn, người già cả.

       – Điều tuyệt diệu thứ bốn: đó là bạn không cần phải có các dụng cụ đặc biệt nào. Vì các dụng cụ chữa bệnh qúa đơn sơ và ở ngay trước mắt: các ngón tay của bạn, hay bất cứ vật dụng gì, kể cả vá, thìa, đũa bếp, bút chì, bút bích, chai, lọ, lược chải đầu, đá, sỏi, miếng gỗ, kẹp phơi quần áo, kẹp sách, dây thun vv… bất cứ gì có thể tác dụng trên các điểm cần thoa bóp, nhấn, đẩy và bấm.

       – Điều tuyệt diệu thứ năm: đó là chỉ trong vòng từ 3 đến 15, 20 phút bạn có thể làm giảm hay chữa trị dứt nhiều loại bệnh khiến cho nhiều người khổ sở cả đời như: nhức đầu kinh niên, đau nhức tứ chi…

       Thật vậy, phản xạ học không chỉ giúp bạn phân biệt và đối phó với mọi thứ bệnh tật, đau nhức, mà còn giúp bạn khám phá ra các sức mạnh trị bệnh tự nhiên giúp giảm đau đớn, và trong nhiều trường hợp hoàn toàn chữa lành tật bệnh chỉ bằng cách “thoa bóp” trên các điểm phản xạ, trong một lúc và theo một cách thức nào đó.

       Với phản xạ học bạn sẽ tự xử dụng các sức mạnh chữa trị tự nhiên để tái tạo quân bình và sinh khí cho các hạch nội tiết, khiến cho khí huyết trong người lưu thông điều hòa, cung cấp dưỡng khí và mọi chất dinh dưỡng cần thiết cho các tế bào, giải tỏa mọi căng thẳng bế tắc, làm cho da dẻ trẻ đẹp hồng hào trở lại, ăn ngủ ngon hơn, tăng cường sức khỏe và hạnh phúc của bạn: “Suối nguồn tuơi trẻ ở trong người bạn”.

       Rất nhiều chứng đau đầu sẽ biến mất, khi bạn thoa nắn hai ngón chân cái, vì chúng bao gồm các phản xạ của đầu. Thoa nắn các vùng tương ứng bạn có thể chữa bệnh chân tay co quắp đau đớn vì chứng sưng khớp xương.

       Phản xạ học là một trong những phương pháp tự nhiên công hiệu nhất giúp giảm đau đớn, bệnh tật, tái tạo năng lực, duy trì sức khỏe tốt mà không gây ra các phản ứng phụ.

       LM Giuse Hoàng MinhThắng

 https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/12/DISCLAIMER.jpg

by Tháng Tám 24, 2012 3 comments Bấm huyệt, Xoa bóp phản xạ học