NHỮNG LỢI ÍCH CHO SỨC KHỎE CỦA BAKING SODA  (2)

DR. MARK SIRCUS

http://drsircus.com/medicine/sodium-bicarbonate-baking-soda

 TĐMVSK xin đăng loạt nhiều bài của bác sĩ Mark Sircus
về lợi ích của Baking Soda cho sức khỏe,
xin mời quý độc gỉa cùng theo dõi.

  1. Baking Soda Uses in Daily Health
  2. Detox Cleanse with Baking Soda
  3. Baking Soda Cancer Studies and pH Medicine
  4. Sodium Bicarbonate Side Effects and Contraindications

 1/Cách sử dụng baking soda hàng ngày cho lợi ích sức khỏe

2/Tẩy độc với baking soda

3/Baking soda và nguồn nước pH kiềm

4/Tác dụng phụ của baking soda và những điều cấm kỵ

*************

 1/Cách sử dụng baking soda hàng ngày cho lợi ích sức khỏe

       Sodium bicarbonate NaHCO3 tiếng thông thường gọi là baking soda là một chất tự nhiên trong dòng máu được cơ thể sử dụng để điều chỉnh độ axít–kiềm pH, để nâng cao axít-kiềm pH, rất quan trọng cho cuộc sống. Baking soda ảnh hưởng đến độ pH của các tế bào và mô, cân bằng điện thế, và gia tăng thán khí CO2 giúp tăng lượng dưỡng khí oxy. Baking soda là công cụ y dược mạnh mẽ mà mọi người nên biết để được hưởng những lợi ích của nó.

       Baking soda c ó thể được sử dụng như đội quân phòng chống đầu tiên cho nhiều loại bệnh như ung thư, cúm, tiểu đường, bệnh thận và ngay cả cảm lạnh. Nó có thể dùng dưới nhiều dạng như thuốc uống, thuốc xịt và cho vào bồn tắm để ngâm. Nó tẩy độc rất mạnh, kể cả chống lại với phóng xạ nữa.

       Mục đích của baking soda là duy trì sự cân bằng độ axít-kiềm pH trong máu, rất cần thiết để duy trì sự sống. Baking soda có thể thay thế nhiều loại thuốc đắt tiền.

       Dr. Cheney chú ý thấy rằng năm 1918 và 1919 xẩy ra trận đại dịch cúm ở Mỹ, những ai mà cơ thể có độ pH là kiềm nhờ baking soda thì thoát được dịch bệnh, những ai bị bệnh dùng baking soda sớm để đạt độ kiềm thì mau khỏi cúm.

Liều lượng:

Việc sử dụng baking soda tương đối dễ dàng và vô hại ngay cả khi bạn không thấy các triệu chứng cảm lạnh thuyên giảm. Chỉ đơn giản hòa tan lượng baking soda đề nghị vào ly nước lạnh và uống. Liều lượng đề nghị cho cảm lạnh và cúm của công ty Arm & Hammer năm 1925 là:

          Ngày 1 : Uống 6 liều cách nhau 2 tiếng. Mỗi lần uống  ½ muỗng cà phê baking soda trong ly nước đầy. (Dùng nước lọc nhiệt độ trong nhà (cool) không đá, không nóng ấm)

          Ngày 2 : Uống 4 liều cách nhau 3 tiếng. Mỗi lần uống  ½ muỗng cà phê baking soda trong ly nước đầy.

          Ngày 3 : Uống 2 liều vào buổi sáng và buổi chiều. Mỗi lần uống  ½ muỗng cà phê baking soda trong ly nước đầy.

          Những ngày tiếp theo : uống 1 liều ½ muỗng cà phê baking soda trong ly nước đầy vào buổi sáng cho tới khi triệu chứng chấm dứt.

 GHI CHÚ:

  • Theo hướng dẫn của Arm & Hammer, không uống vượt qúa 7 liều 1/2 muỗng cà phê một ngày, hay 3 liều 1/2 muỗng cà phê hàng ngày nếu bạn trên 60 tuổi. Ngoài ra không dùng liều tối đa trong hơn hai tuần.
  • Hiệu quả của chất kiềm trong dạ dày sẽ khác nhau tùy theo tình trạng của dạ dày lúc được truyền vào. Lúc nghỉ ngơi ( sau khi thức ăn được tiêu hóa ) baking soda chỉ làm tan chất nhầy và được hấp thụ vào máu như chất bicarbonate, trực tiếp làm tăng độ kiềm.
  • Trong giai đoạn tiêu hóa nó làm giảm sự tiết dịch vị, trung hòa một phần axit clohydric, giải phóng thán khí CO2 như thuốc tống hơi, và được hấp thụ như sodium chloride.
  • Trong trường hợp lên men hoặc ‘ dạ dày chua ‘ nó có thể trung hòa các axit hữu cơ và chữa chứng đầy hơi. Ví dụ: một người bị chứng thừa axit liên tục thì thường 1 hay 2 giờ sau bữa ăn là có nhiều lượng axit dư thừa có hại. Trường hợp này uống 1 liều baking soda 1 giờ trước bữa ăn hay 30 phút sau bữa ăn.
  • Một liều trước khi đi ngủ để chế ngự độ axit sáng hôm sau, hay một liều vào sáng sớm để thanh lọc axit và chất nhầy của bao tử trước khi ăn sáng.   
  • Baking soda cần được hòa tan trong nước mát (không dùng nước nóng hay ấm) trước khi uống.

       Baking soda rất tốt khi sử dụng cho các vấn đề thuộc đường hô hấp, nhiễm độc, viêm thận, nước tiểu nhiều axit, Axit uric tích tụ, bệnh thấp khớp, phỏng, cháy nắng, đau loét, tiểu đường, ung thư, … Thỉnh thoảng uống baking soda trong 3 ngày để gia tăng độ kiềm của máu, sẽ giúp cơ thể gia tăng khả năng chống lại các bệnh truyền nhiễm.

       Magnesium chloride là dạng duy nhất của magnesium đã được báo cáo là tăng sức mạnh hệ miễn nhiễm mặc dù tất cả các dạng  của magnesium đều có lợi ích chung này. Khi thêm magnesium vào trong bồn nước ngâm, hay thoa thêm trên da hay uống thì hiệu quả càng tăng thêm.

        Thêm Iốt, Selenium, Vitamin C và phơi nắng (hay vitamin D) thì chúng ta có đội quân hùng hậu để chống lại các vi khuẩn, vi rút, nấm.

       Sau một ngày làm việc mệt nhọc mà được ngâm mình trong bồn nước nóng có thêm một chén baking soda thì sẽ giúp giảm căng thẳng và làm dịu đau nhức bắp thịt. Nó cũng giúp tẩy tế bào chết và cho làn da tươi sáng trẻ trung. Ngâm chân với baking soda cũng giúp chân đỡ mệt mỏi, đau nhức. Kết hợp baking soda với magnesium chloride sẽ đem lại sự thay đổi nhanh chóng cho sức khỏe và công thức này còn tốt hơn là đi tắm trị liệu bằng nước suối nóng với sodium thiosulfate nữa.

       Khi muối và baking soda được cho vào trong bồn tắm, việc ngâm mình sẽ giúp tẩy độc phóng xạ từ X-quang.

       Muối và baking soda được dùng như thuốc kháng axit dạ dày, chống axit trong toàn hệ thống và kiềm hóa nước tiểu; hòa tan trong nước được dùng để rửa mũi, miệng, âm hộ, nước thụt rửa, và thưốc đắp cho các chỗ phỏng nhẹ.

       Không có gì làm cho bạn thấy thoải mái cho bằng ngâm mình trong bồn tắm có baking soda và magnesium chloride. Việc ngâm mình này là thiên đàng ở trái đất cho những người bị mất ngủ và tê mỏi tay chân. Cũng cùng kết qủa khi được xoa bóp với dầu magnesium.

2/Tẩy độc với baking soda

Trường hợp khẩn cấp khi nhiễm phóng xạ: ngâm mình ngay trong nước baking soda và Magnesium.

Cách điều trị tốt nhất khi bạn ngửi thấy mùi hôi hay nếm thức gì gây khó chịu hay có triệu chứng cúm là ngâm mình trong bồn nước tắm có vài pounds baking soda và muối magnesium, hai lượng này ngang nhau.

Trường hợp cấp cứu, dùng từ 1 đến 5 pounds (450 gr – 2 kg 250 gr) baking soda và 1- 5 pounds (cùng lượng) muối magnesium có trong muối Biển Chết, muối Epsom và magnesium chloride bath flakes (trẻ em dùng lượng ít hơn).

Uống baking soda sẽ giảm thiểu được chất độc của phóng xạ uranium  ở thận. Cũng khử mọi chất độc kim loại nặng và độc chất hóa học của hóa trị. Vì vậy baking soda được các trung tâm chữa trị ung thư tiêm truyền cho bệnh nhân để bảo vệ họ từ những độc chất nguy hại của hóa trị.

Bí quyết để tránh tác hại lâu dài do nhiễm phóng xạ khi bạn ở trong vùng này là khi vừa nghe thấy mùi khó chịu của nó là ngâm mình trong bồn nước baking soda và magnesium ngay.

Độ axít-kiềm pH của chất lỏng trong cơ thể ảnh hưởng đến mọi tế bào. Tình trạng quá axit lâu năm mà không kiểm soát sẽ làm gián đoạn các chức năng và hoạt động của mọi tế bào. Nó chính là gốc của ung thư.

3/Baking soda và nguồn nước pH kiềm

Thiếu oxy dẫn đến nhiễm axit:

       Chất lỏng càng nhiều ion Hydro H+ riêng lẻ thì càng axit.

       Ion hydro+ sẽ giảm đi khi được nối kết với oxy để thành nước có công thức hóa học là H2O.

       Càng có nhiều oxy để oxy kết hợp với ion H+ thành nước H2O thì ion H+ sẽ giảm đi, như vậy chất lỏng sẽ ít axit hơn.

       Tăng cường dồi dào oxy để kết hợp với mọi ion H+ thì sẽ hết axit và có khả năng tăng dần lên độ pH kiềm.

       Điều này có nghĩa là cơ thể càng axit khi càng thiếu oxy trong máu.

       Mỗi tế bào trong cơ thể đều cần oxy cho sự sống và để duy trì sức khỏe tối ưu. Máu có độ pH kiềm nhẹ trong khoảng 7.35 – 7.45. Nước miếng của chúng ta phản ánh độ pH trong cơ thể càng gần với độ pH của máu thì sức khỏe càng dồi dào.

       Như vậy chúng ta hiểu lợi ích của việc hít thở tự nhiên dài chậm sâu là để cơ thể có nhiều dưỡng khí oxy, cũng như baking soda NaHCO3 chứa nhiều oxy và qua sự chuyển đổi hóa học trong cơ thể sẽ giúp đảo ngược tình trạng axit, nâng cao độ pH, đưa cơ thể lên môi trường kiềm nhẹ là môi trường không còn thuận lợi cho các mầm gây bệnh kể cả ung thư sinh sống. Thêm vào đó, khi kết hợp với tẩy lọc và dinh dưỡng thì vi rút, vi khuẩn, nấm, tế bào ung thư sẽ bị bỏ đói, bị chết, kết qủa là bệnh tật được đẩy lui, cơ thể tự chữa lành.

Nhiễm axit mạnh làm mất oxy.

       Jon Barron trình bày một cách nhìn về độ pH để dẫn đến một trong những lợi ích chính của nước kiềm như sau :

       Kết hợp với những gì chúng ta biết về các ion hydro+ và chúng ta thấy rằng máu càng axit (pH nhỏ hơn 7.35-7.45), thì oxy càng ít có sẵn để các tế bào sử dụng. Chúng ta không thảo luận về yếu tố hóa học phức tạp ở đây, mà dùng hình ảnh cụ thể  để dễ hiểu về cơ chế tương tự: một trận mưa axit rơi xuống hồ đã giết hết các sinh vật sinh sống trong đó.

       Cá trong hồ bị ngộp thở đến chết vì chất axit trong hồ đã  “ăn hết” khí oxy có sẵn. Không phải là do oxy chuyển đi nơi nào khác, mà là do oxy bị axit rút hết rồi. Để nhanh chóng đảo ngược tình thế, bạn cần nâng cao độ pH của hồ nước, nghĩa là làm cho nước tăng lên độ kiềm với dồi dào oxy trong hồ và hồ nước có sự sống trở lại.

       Thật là có ích khi chúng ta lưu ý rằng ung thư có liên quan tới môi trường axit là môi trường thiếu oxy: khi độ pH được tăng lên độ kiềm 7.4, nghĩa là trong tế bào có đủ dưỡng khí oxy, thì tế bào ung thư không sống được, phải rút lui.

       Hiểu được điều này thật là quan trọng vì hai lý do: (1) nó cho thấy một trong những lợi ích chính của nước kiềm là nước có dồi dào oxy và (2) nó giải thích lý do tại sao nước kiềm giúp chống lại bệnh ung thư.

       Đại dương, mẹ của tất cả sự sống, có độ pH trung bình khoảng 8.1. Độ pH lý tưởng cho máu nằm ở khoảng 7,4 , hơi kiềm không có tính axit  .

Barron kết luận:

       Nếu bạn ăn uống lành mạnh và có nếp sống tốt, thì bạn cũng muốn uống nước tự nhiên có độ pH trên 7 một chút. Tuy nhiên nếu bạn ăn uống theo kiểu Tây Âu hiện đại, nhiều thịt, gạo, sô đa và đường thì chúng sẽ làm cho cơ thể bạn nhiễm axit, và rồi sẽ gây ra nhiều vấn đề về sức khỏe cho bạn. Độ cân bằng axit-kiềm bây giờ vượt ra xa với mức khỏe mạnh bình thường.  Tôi đề nghị bạn uống nước có pH khoảng 7.5 – 8, tùy theo thực phẩm nhiều ít axit ra sao trong chế độ ăn của bạn.

       Nước từ dãy Hi mã lạp sơn có pH từ 9 tới 11.

       Uống nước có độ pH kiềm lâu dài sẽ đảo ngược một số trường hợp đặc biệt. Nước uống từ vùng núi đem lại sự chữa lành nổi tiếng trên thế giới là nước có độ kiềm cao. Tôi muốn nói đến dòng nước chảy xuống từ núi Hi mã lạp sơn, và đặc biệt nước ở thung lũng Hunza, có độ pH từ 9 đến 11.

        Mỗi thầy thuốc hay từng người cha người mẹ cần hiểu về cách sử dụng baking soda. Sự thiếu bicarbonate trong cơ thể gây nhiều vấn đề cho sức khỏe và càng gia tăng theo tuổi tác. Bạn hãy chú tâm tìm hiểu và sẽ trân quý những gì mà baking soda đem lại cho bạn.  

       Bạn có thể tạo nguồn nước uống kiềm có nhiều chất khoáng cần thiết trong nhà bằng cách cho vào nước cất (distilled water) muối magnesium chloride, nếm cho vừa rồi thêm vào chút baking soda. Bạn dùng giấy thử để đo độ pH của nước.

http://www.ehow.com/how_5008698_test-tap-water-ph.html

http://www.amazon.com/Alkazone-Drops-Water-Color-Chart/dp/B001DRMGQA

 4/Tác dụng phụ và những cấm kỵ của baking soda:

Tất cả mọi thứ cần phải được sử dụng trong mức độ vừa phải,  cân bằng.

-Thông thường baking soda dễ được cơ thể chấp nhận, nhưng những liều cao quá có thể gây nhức đầu, nôn nao hoăc khó chịu. Nếu những triệu chứng này tiếp tục, hãy cho bác sĩ biết. Cho bác sĩ biết nếu bạn có thêm triệu chứng: yếu cơ, phản xạ chậm và nhầm lẫn, sưng chân hay mắt cá chân, phân đen, ói mửa có màu cà phê hoặc những triệu chứng khác.

-Không dùng baking soda nếu bạn đang trong chế độ ăn ít muối trừ phi được bác sĩ hướng dẫn.

-Hỏi ý kiến bác sĩ hay dược sĩ trước khi dùng nếu đang uống thuốc cho toa. Thuốc kháng axit (antaxits) có thể tương tác với một số thuốc cho toa.

-Không cho trẻ em dưới 5 tuổi dùng mà không xem xét kỹ lưỡng.

-Để tránh thương tổn, phải đợi baking soda hoàn toàn tan trong nước mới uống, và rất quan trọng là không uống baking soda khi bao tử đầy thức ăn hay thức uống. Hỏi ý kiến bác sĩ nếu thấy đau bao tử dữ dội sau khi uống baking soda.

-Tác dụng phụ có thể bao gồm sự nhiễm kiềm chuyển hóa, phù nề do muối quá tải, suy tim sung huyết, hội chứng thẩm thấu, chứng tăng natri huyết, và cao huyết áp do tăng muối.

-Những bệnh nhân với chế độ ăn uống giàu canxi hoặc giàu sữa và những sản phẩm từ sữa, thuốc bổ sung canxi, hoặc thuốc kháng axit có chứa canxi như canxi carbonat (ví dụ như Tums), việc sử dụng baking soda có thể gây ra hội chứng sữa kiềm, có thể dẫn đến vôi hóa di căn, sỏi thận và suy thận.

-Trong trường hợp hiếm hoi, nhiễm kiềm chuyển hóa phát triển trong một người đã uống quá nhiều chất kiềm từ nhiều chất chẳng hạn baking soda.

-Trường hợp kiềm hóa nặng ( ví dụ pH của máu > 7.55 ) là vấn đề nghiêm trọng.  Tỷ lệ tử vong đã được báo cáo là 45% ở những bệnh nhân với độ pH máu động mạch 7,55 và 80% khi độ pH lớn hơn 7.65 .

-Uống baking soda với số lượng vượt quá khả năng của thận để bài tiết bicarbonat dư thừa có thể gây nhiễm kiềm chuyển hóa.

-Nhiễm kiềm chuyển hóa là vấn đề rối loạn axit-kiềm gặp thông thường nhất ở những bệnh nhân trong các bệnh viện, chiếm khoảng 50% của tất cả các rối loạn axit-kiềm .

-Nhiễm kiềm chuyển hóa nghiêm trọng gây co thắt động mạch với sự giảm lưu lượng máu vào các mô. Do lưu lượng máu giảm ở não, nhiễm kiềm có thể dẫn đến co cứng, co giật và giảm năng lực trí não. Nhiễm kiềm chuyển hóa cũng làm giảm lưu lượng máu ở mạch vành và rối loạn nhịp tim.

-Nhiễm kiềm chuyển hóa gây giảm thông khí, có thể gây thiếu oxy máu, đặc biệt là ở những bệnh nhân hô hấp kém.

-Nhiễm kiềm giảm nồng độ trong huyết thanh của ion canxi bằng cách gia tăng ion canxi liên kết với albumin. Ngoài ra, nhiễm kiềm chuyển hóa gần như luôn gắn liền với giảm kali máu  (nồng độ kali thấp), có thể gây suy nhược thần kinh cơ và rối loạn nhịp tim, và, bằng cách tăng sự sản xuất amoniac, nó có thể thúc đẩy bệnh não-gan ở những người nhạy cảm.

-Những dấu hiệu vật lý của nhiễm kiềm chuyển hóa không riêng biệt và phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của nhiễm kiềm. Vì nhiễm kiềm chuyển hóa làm giảm nồng độ ion hóa canxi, nên có thể có dấu hiệu giảm calci máu (ví dụ: co cứng, dấu hiệu Chvostek, dấu hiệu Trousseau), thay đổi trạng thái tinh thần, hoặc co giật.

Các triệu chứng của nhiễm kiềm

• Lẫn lộn (có thể tiến đến tê mê hoặc hôn mê )

• Run tay

• Nhức đầu nhẹ

• Co giật cơ bắp

• Buồn nôn, ói mửa

• Tê hoặc như có kiến bò ở mặt hoặc tay chân

• Co thắt cơ kéo dài ( tetany )

Cho bác sĩ biết nếu bạn có : tiền sử bệnh tim, bệnh thận, bệnh gan, huyết áp cao, hoặc bất kỳ loại dị ứng nào. Bởi vì baking soda có chứa một lượng lớn muối, hãy cho bác sĩ biết nếu bạn đang trong chế độ ăn ít muối.  Baking soda nên được sử dụng khi thật cần thiết nếu bạn mang thai. Một lượng nhỏ sodium bicarbonate đã được tìm thấy là trong sữa mẹ. Tlhảo luận về những rủi ro và lợi ích với bác sĩ ngay cả khi bệnh nhân có thể sẽ không hiểu đầy đủ về những lợi ích vì họ chưa bao giờ sử dụng baking soda như là một loại thuốc mang tính hệ thống đối với các bệnh mãn tính như ung thư và tiểu đường.

Cho bác sĩ của bạn biết bất kỳ loại thuốc bán sẵn không cần toa hoặc theo toa mà bạn có thể uống, và hỏi bác sĩ về mối nguy hiểm và tác dụng phụ thông thường của các loại thuốc đó. Thuốc này có khả năng tương tác với nhiều loại thuốc. Không dùng bất kỳ loại thuốc khác trong vòng 1-2 giờ sau khi dùng thuốc kháng axit. Nếu nghi ngờ uống quá liều, hãy liên hệ với trung tâm chống độc hoặc phòng cấp cứu tại địa phương ngay. Người dân Mỹ có thể gọi đường dây nóng về chất độc số 1-800-222-1222,  cư dân Canada nên gọi cho trung tâm kiểm soát chất độc địa phương trực tiếp. Các triệu chứng của quá liều có thể bao gồm khó chịu, cứng cơ, và co giật.

Trước khi dùng baking soda, cho bác sĩ của bạn biết nếu bạn đang dùng:

• Mecamylamine ( Inversine )

• Methenamine ( Mandelamine )

• Ketoconazole ( Nizoral )

• Thuốc kháng axit (Antaxits)

• Thuốc kháng sinh như tetracycline (Sumycin, Achromycin V, và những loại khác), demeclocycline (Declomycin), doxycycline (Vibramycin, Monodox, Doxy, và những loại khác), minocycline (Minocin, Dynacin, và những loại khác) , hoặc oxytetracycline (Terramycin, và những loại khác).

Bạn không thể uống baking soda, hoặc bạn có thể yêu cầu điều chỉnh liều lượng hoặc giám sát đặc biệt trong quá trình điều trị nếu bạn đang dùng bất kỳ loại thuốc nào nêu trên.

Nếu bạn quên uống một liều, hãy uống ngay khi nhớ ; không uống nếu gần đến giờ của liều kế tiếp, bỏ qua liều đã quên và tiếp tục lịch trình dùng thuốc thông thường của bạn. Không tăng liều gấp đôi để bù lại. Lưu trữ ở nhiệt độ phòng giữa 59 và 86 độ F (từ 15 đến 30 độ C) xa nguồn nóng, ánh sáng và độ ẩm.

Hãy chắc chắn rằng bạn chỉ uống một lượng nhỏ dung dịch baking soda bất cứ đến giờ uống nào, vì chất kiềm có thể trung hòa đa số hay hầu như là tất cả các axit trong dạ dày, khiến cho dạ dày dễ tạo thêm axit hơn. Điều này có thể gia tăng chứng ợ nóng, sẽ làm bạn uống thêm baking soda và bắt đầu một chu kỳ nguy hiểm.

Axit folic cần thiết để cơ thể sử dụng Vitamin B12. Thuốc kháng axit, bao gồm baking soda, ức chế sự hấp thu axit folic. Những người dùng thuốc kháng axit nên uống bổ sung axit folic.

LM Hoàng Minh Thắng và nhóm Tông Đồ Mục Vụ Sức Khỏe

Công dụng của Thuốc Muối (Baking Soda) Bài 1

 https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/12/DISCLAIMER.jpg

Comments are closed.