https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/12/oil-pulling-therapy-detoxifying-and-healing-the-body-through-oral-cleansing.jpg

Trích “Oil Pulling Therapy: Detoxifying and Healing the Body Through Oral Cleaning”
Tác gỉa: Dr. Bruce Fife.
Người dịch: Hoàng Đình Tứ

LIỆU PHÁP SÚC DẦU

      Tôi cũng thường nghe một số người than phiền rằng họ súc dầu chữa bệnh, nhưng chẳng thấy gì. Một số khác lại tuyên bố là, nó còn tệ hại hơn nữa. Vì sao liệu pháp chữa bệnh bằng cách súc dầu mang hiệu quả tuyệt vời cho một số người, lại tỏ ra vô giá trị đối với một số người khác?  Súc dầu là một kỹ thuật hữu ích, nhưng nó không phải là một loại thuốc chữa bá bệnh. Thực vậy, bản thân nó cũng không phải là một loại thuốc.

     Súc dầu là một phương tiện hữu ích để loại trừ những vi khuẩn độc hại ra khỏi miệng. Mục đích của nó là như vậy. Nếu bạn bị nhiễm trùng trong miệng, nó sẽ lôi đi tất cả những vi khuẩn độc hại, giúp cơ thể bạn có cơ hội tự phục hồi.

     Thế tại sao trong những trường hợp khác, cơ thể không thể tự phục hồi? Khi bạn đọc được những câu chuyện thành công của người khác, bạn trở nên quá tự tin, và tin tưởng rằng nó có khả năng giải quyết mọi vấn để về sức khỏe, chỉ trong một sớm một chiều. Điều này quả là không tưởng. Nếu như bạn đang có một vấn đề về sức khỏe vốn cần tới 10 năm, 20 năm mới phát ra, thì bạn không thể nào mơ rằng căn bệnh sẽ biến mất sau một đêm. Hãy nhớ rằng, súc dầu không phải là thuốc chữa bệnh, chính cơ thể chúng ta tự chữa bệnh. Muốn thế, cần phải có thời gian. Nếu bạn biết một cái xương gẫy, muốn phục hồi, cần vài ngày, một hai tuần, hoặc thậm chí vài ba tháng, thì không có lý gì bạn chờ đợi một căn bệnh sớm phục hồi, đặc biệt khi đó là một căn bệnh kinh niên ngày càng trầm trọng, đã kéo dài nhiều năm. Bạn cần phải thực tế hơn.

     Một lý do nữa giải thích tại sao tiến trình lành bệnh không xảy ra sớm như bạn mong đợi được, đó và vì bạn không cho phép nó! Nếu như bạn mang bệnh vì chế độ ăn uống kém, hoặc do thói quen trong lối sống, thì bạn đừng mong đợi nó phục hồi cho tới khi bạn thay đổi mọi sự. Nó giống như lấy búa nện vào ngón tay. Dán băng keo chữa trị không ăn thua gì, nếu như vẫn cứ lấy búa nện vào tay. Hãy ngưng tất cả những việc gây hại cho sức khỏe trước khi chờ đợi cơ thể bạn tự phục hồi.

     Việc súc dầu sẽ làm mọi thứ nó cần làm, nhưng nếu một căn bệnh không liên hệ tới sức khỏe răng miệng thì nó sẽ không mang lại kết quả bạn trông đợi. Không phải vấn đề sức khỏe nào cũng phát sinh từ nhiễm trùng miệng. Bệnh tật có thể phát sinh từ sự mất cân bằng trong hệ tiêu hóa, một vết thương  bị nhiễm trùng, quan hệ tình dục, khuyết tật di truyền, và các nguyên nhân khác. Một số những vi sinh vật tương tự làm miệng nhiễm trùng, gây nguy hại cho máu, cũng sống trên da và trong môi trường, có thể  đi vào cơ thể bằng những con đường khác. Ngay cả trong những trường hợp này, việc súc dầu cũng giúp giảm gánh nặng cho hệ miễn dịch, cho nên điều này được xem là rất có ích.

CHẾ ĐỘ ĂN UỐNG TỐT

     Chế độ ăn uống đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sức khỏe. Câu ngạn ngữ, “Anh ăn cái gì, ăn sẽ trở nên như vậy” thật rất đúng . Nếu bạn ăn toàn là vặt vãnh, sức khỏe của bạn sẽ giống như rác, và sẽ bị đổ vào hố rác. Ngược lại, nếu bạn biết chọn những thức ăn tốt, nhiều dinh dưỡng thì bạn sẽ có được những viên gạch bền chắc để xây dựng bảo tồn ngôi nhà cơ thể mạnh khỏe.

     Hầu hết chúng ta ai cũng ý thức được tầm quan trọng của việc ăn uống sao cho mạnh khỏe, nhưng ít ai hiểu rõ thế nào là một chế độ dinh dưỡng tốt. Một số tin rằng, nếu họ ăn thêm vài khẩu phần rau trong ngày, tức là họ có một chế độ ăn uống tốt. Người khác lại nghĩ rằng, nếu họ giảm bớt một chút it chất béo trong bữa ăn, thì đó là chế độ dinh dưỡng tốt, mặc dù họ ăn những thứ khác còn nhiều hơn.

     Nếu bạn hỏi 10 người xem họ nghĩ thế nào là một chế độ ăn uống dinh dưỡng tốt, thì bạn sẽ nhận được 10 câu trả lời khác nhau. Có người nói rằng đó là chế độ ăn có ít chất béo; người khác cho rằng ít chất bột, kiểm soát lượng hyđratcacbon, trong khi những người khác cho rằng ăn rau cải là tốt nhất.  ZonePerfect hướng tới sự cân bằng trong khẩu phần dinh dưỡng. Weight Watchers là phương pháp tính toán giảm thiểu lượng calo.

     Theo bạn thì sao? Có quá nhiều chế độ, nhiều trào lưu khiến chúng ta phải bối rối. Có nhiều cách được đưa ra để giảm cân. Để giảm cân thì chưa hẳn đã là cách tốt nhất cho sức khỏe, cũng chưa hẳn là cách bạn sẽ áp dụng cả cuộc đời. Tẩy độc cơ thể cũng vậy, để cấp thời làm sạch cơ thể, chứ không thể áp dụng mãi được. Có ai muốn cả đời cứ phải uống nước củ, cải mãi đâu? Những chế độ ăn uống mà chúng ta muốn áp dụng, phải phục vụ nhiều mục đích, phải đầy đủ dưỡng chất, ít năng lượng, mùi vị thơm ngon.

     Có nhiều ý kiến trái ngược về giá trị của một loại thực phẩm hoặc chế độ ăn uống: thứ nào tốt, thứ nào xấu. Bạn không thể hoàn toàn tin tưởng những người gọi là chuyên gia, bởi vì chính họ còn mâu thuẫn với nhau. Một số nói rằng chất béo no, cholestorol, và thịt đỏ thì xấu, trong khi những người khác lại nói là tốt; chính đường và ngũ cốc chế biến mới là xấu, v.v…Bạn tin ai bây giờ? Thưa, vẫn còn một câu trả lời.

     Người có thể nghiên cứu về khoa học dinh dưỡng và đưa ra những luận thuyết về các chế độ dinh dưỡng, nhưng kiểm chứng thực sẽ là chế độ nào hiệu nghiệm trên thực tế. Lý thuyết nghe hay, nhưng nếu nó không hiệu nghiệm lúc áp dụng, thì cũng chẳng ích gì. Một chế độ ăn uống tốt là một chế độ giúp tăng cường sức khỏe, chống lại bệnh tật, và duy trì sức khỏe cho tới tuổi già – hết cả cuộc đời. Chế độ ăn uống hiện thời, mệnh danh là Phương Tây (Western diet) rất tiếc, lại thiếu sót điều này. Mặc dù nó giúp giảm cholestorol, giảm chất béo no, và vài thứ khác, nhưng những căn bệnh trầm kha lại gia tăng mỗi ngày một nhiều, và ngày càng có thêm nhiều căn bệnh mới. Những bệnh trước đây chỉ gặp ở tuổi già, nhưng lại xuất hiện ở lứa tuổi trẻ hơn, như tiểu đường, viêm khớp. Chế độ ăn uống theo kiểu đó thực sự là một tai họa. Thế tìm đâu ra câu trả lời?

     Chìa khóa để tìm ra chế độ dinh dưỡng lý tưởng là nhìn vào tỉ lệ dân số ít bị bệnh nặng kéo dài, kể cả sâu răng và bệnh về lợi. Một nhóm dân số nào đó không thể khỏe mạnh được nếu không có một chế độ tồi. Như vậy một dân số khỏe mạnh cần một chế độ dinh dưỡng tốt. Ngày nay khó có thể kiếm được những người như vậy. Thương mại quốc tế ngày càng phát triển, thức ăn hiện đại của phương tây lúc nào cũng có sẵn trên trên thị trường toàn cầu. Kết quả là các bệnh tim mạch, ung thư, tiểu đường và những căn bệnh nặng khác hoành hành khắp thế giới.

     Tuy nhiên, vào đầu thế kỷ hai mươi, có những nhóm dân tộc không bị tiếp cận với những thức ăn hiện đại này và không bị ảnh hưởng bởi cái gọi là những căn bệnh của nền văn minh hiện đại. Nhờ có công việc tiên phong của bác sĩ Weston A. Price mà chúng ta có được những tài liệu về những xã hội khỏe mạnh và thực phẩm họ dùng. Bác sĩ đã có những nghiên cứu sâu rộng về những bệnh nhiễm trùng chính trong khoảng thập niên 1920. Những năm sau đó bác sĩ đã tìm ra mối tương quan giữa các căn bệnh trầm trọng kéo dài với chế độ ăn uống.

     Trong quá trình hành nghề nha lâu năm của bác sĩ Price, ông đã có dịp quan sát số người ngày càng gia tăng bị mắc bệnh trầm trọng kinh niên, và những vấn đề về răng. Ông nhận thấy càng về sau trong cuộc đời nha sĩ của ông, càng có nhiều vấn đề về răng mà trước đây rất hiếm. Trong suốt phần đầu của thế kỷ 20, việc sản xuất và chế biến thực phẩm đã được cách mạng hóa để đáp ứng đòi hỏi của dân số thế giới ngày càng gia tăng mạnh mẽ.

     Phát minh về máy ép thủy lực và hydro-hóa dầu thực vật đã làm thay đổi tính chất các loại dầu và chất béo trong chế độ ăn uống. Trước thập niên 20, mỡ động vật và dầu nhiệt đới là nguồn chất béo chính trong chế độ ăn uống. Dầu chiết xuất từ các loại hạt chưa được dùng nhiều vì còn khó tìm và chi phí sản xuất còn cao. Phương pháp dùng máy ép thủy lực đã đơn giản hóa phương pháp chế biến với chi phí thấp hơn mỡ thực vật. Mỡ và bơ động vật phải nhường bước cho bơ thực vật.

     Việc sản xuất đường và bột được tự động hóa. Từ năm 1900 tới năm 1930, mức tiêu thụ đường tăng gấp 10 lần. Bánh mì trắng trở thành nguồn thực phẩm chính. Bánh mì trắng nhẹ hơn, xốp hơn, và nhờ chất bảo quản, có thể giữ được lâu hơn không bị hư. Nước quả nấu đông, mứt, thực phẩm đóng hộp, kẹo đủ loại, tràn ngập trên kệ các cửa tiệm. Chất bảo quản, chất tạo vị, phẩm màu nhân tạo và nhiều hóa chất khác được đưa vào thực phẩm đóng hộp. Sữa tươi nguyên chất, một tiêu chuẩn quốc tế, nay đã được tiệt trùng. Kỷ nguyên sản xuất thực phẩm hiện đại đã bắt đầu. Chế độ ăn uống kiểu Mỹ, và phải nói là của toàn thế giới phương tây, bắt đầu tạo những thay đổi lớn.

     Khi phương pháp chế biến thức ăn bắt đầu phát triển, và chế độ ăn uống bị thay đổi, một hiện tượng thú vị bắt đầu xuất hiện. Nó tinh tế tới mức ít ai để ý tới, và ngược lại những căn bệnh hiếm có hoặc chưa từng nghe nói tới bắt đầu gia tăng về số lượng. Bệnh động mạch vành (tim), chưa từng nghe đến trước thập niên 20 bùng nổ, và đến những năm 50, thì trở thành nguyên nhân tử vong hàng đầu. Điều thú vị là ở chỗ, ngày nay mỡ động vật và cholestorol bị cho là nguyên nhân gây bệnh tim mạch, thế nhưng vào đầu thể kỷ trước đó, khi mà mỡ động vật là nguồn cung cấp chất béo chính yếu trong chế độ ăn uống, và sức tiêu thụ chất béo no và cholestorol cao hơn nhiều so với hiện tại, thì bệnh tim mạch lại hiếm.

     Bác sĩ Price là chứng nhân cho sự thay đổi to lớn trong chế độ ăn uống và sự gia tăng các chứng bệnh không thuyên giảm, và các chứng bệnh vể răng miệng. Bác sĩ đã tự đặt ra câu hỏi: Phải chăng sự thay đổi về ăn uống có mối tương quan mật thiết tới sự suy giảm về sức khỏe. Ông bắt đầu đi tìm câu trả lời. Cách ông làm là thực hiện việc so sánh sức khỏe của những người ăn thức ăn truyền thống với sức khỏe của những người ăn thức ăn chế biến hiện đại. Để tránh những tác nhân khác có ảnh hưởng tới sức khỏe, ông chọn các đối tượng tham gia cuộc nghiên cứu có cùng một cơ sở di truyền, sống cùng một khu vực địa lý. Điểm khác biệt duy nhất là chế độ ăn uống.

     Ngày nay khó có thể tìm được một nhóm dân số chỉ dựa vào thức ăn truyền thống. Thức ăn hiện đại có thể tìm thấy hầu như ở khắp nơi trên thế giới. Nhưng vào thập niên 30, vẫn còn tìm được những dân tộc sống chủ yếu dựa vào thức ăn cổ truyền và không bị ảnh hưởng của thức ăn hiện đại.

     Bác sĩ Price đã trải qua một thập kỷ đi khắp thế giới, tìm và nghiên cứu những giống dân này. Ông đi tới những vùng thung lũng xa xôi trong dãy núi Alpes Thụy Sĩ, vùng ngoại vi và nội địa  Hebrides ngoài khơi Tô-cách-lan, thăm viếng những ngôi làng người Eskimo ở Alaska, những thổ dân Mỹ tại miền trung và miền bắc Canada và Florida, người Melanesian và người Polynesian ở vô số đảo tại nam Thái Bình Dương, các bộ tộc miền đông và trung Phi, thổ dân Úc, các bộ tộc Malay ở trên các đảo miền bắc nước Úc, giống dân Maori ở Tân-tây-lan, và người da đỏ Nam Mỹ ở Pê-ru và Vùng lòng chảo Amazon.

     Khi bác sĩ Price đến một khu vực nào đó, ông thường khám sức khỏe cho dân chúng, đặc biệt là răng, và ghi chú cẩn thận thức ăn họ dùng, phân tích tỉ mỉ chất dinh dưỡng có trong khẩu phần ăn. Những mẫu thức ăn được gửi tới phòng thí nghiệm nơi thực hiện những phân tích chi tiết. Chẳng cần nhiều thời gian, ông cũng đã nhận ra sự tương phản về sức khỏe giữa những người ăn thức ăn truyền thống với những người ăn thức ăn hiện đại trong chế độ dinh dưỡng của mình.

     Bất cứ nơi nào người ta dùng thức ăn truyền thống, ông ghi nhận rằng cả sức khỏe về răng và toàn thân đều tốt, trong khi những người dùng thức ăn hiện đại , sức khỏe đều bị suy giảm. Khi thiếu sự chăm sóc y tế hiện đại, thì sự suy giảm sức khỏe đó lại càng rõ nét. Những bệnh về răng, cũng như nhiễm trùng và những căn bệnh hiểm nghèo khác như viêm khớp, lao phổi, rất phổ biến trong nhóm người dùng thức ăn phương tây. Thí dụ, có những khác biệt rõ ràng giữa những người sống sâu bên trong các đảo Thái-bình-dương với những người sống bên bờ đảo nơi có những bến  cảng với nhiều thức ăn hiện đại. Đảo dân nam Thái-bình-dương. Trái: cho thấy một người đàn ông bộ tộc Malay với hàm răng trắng đều và đẹp. Phải: Ngược lai, đây là một phụ nữ Melanesian sống ở một khu vực cảng nơi người ta có thể thoải mái dùng những thức ăn hiện đại. Bà đã đánh mất vẻ đẹp trời cho vì sâu răng.Hình của Bs Weston A. Price. Tác quyền Price-Pottenger Nutrition Foundation  www.ppnf.org

     Nói về những người dân sống sâu trong đảo, bác sĩ ghi nhận: “Có sự phát triển về thể chất, kể cả răng và nguyên hàm răng rất có thứ tự đều đặn.”  Một so sánh giữa những người sống gần hải cảng với những người sống ở các khu vực hẻo lánh cho thấy có tỉ lệ gia tăng rõ rệt đối với các trường hợp sâu răng. Đối với những người sống chủ yếu dựa vào thức ăn địa phương thì tỉ lệ sâu răng chỉ là 0,14%, trong khi đó những người sống bằng thức ăn mua bán trên thị trường thì tỉ lệ la 26%. Ông còn tiếp tục với nhận xét là có những căn bệnh hiểm nghèo đang lần lần phát triển quanh khu hải cảng.

      Không cần phải có một thay đổi to lớn trong chế độ ăn uống thì mới phát sinh ra những căn bệnh nguy hiểm, mà chỉ cần thêm vào một vài sản phẩm thương mại là đã đủ, những sản phẩm này đã thay chỗ cho thức ăn dinh dưỡng. Đó là những thức ăn nhập cảng thông thường như : bột trắng, gạo trắng, đường, và thực phẩm đóng hộp.

     Trong những nhóm đối tượng nghiên cứu thì số người dùng thực phẩm truyền thống bị sâu răng chỉ là 0,78% (chưa tới 8 trường hợp trong 100 trường hợp), trong khi những người ăn thực phẩm phương tây bị sâu răng là hơn 33% (333 người trong 1000 trường hợp). Những người ăn thực phẩm hiện đại thì có tới 90-100% bị sâu răng. Những người ăn theo chế độ truyền thống có răng rất tốt, cho dù họ không hề đánh răng hay tơ răng  (flossing), họ không hề dùng thuốc tẩy trắng răng, hoặc thuốc súc miệng chuyên dùng, cũng không hề nhận được sự chăm sóc răng chuyên nghiệp. Hàm răng chắc khỏe của họ là kết quả trực tiếp của chế độ ăn uống tốt. Tình trạng răng của họ rõ ràng là phản ánh được sức khỏe thể chất toàn diện của họ.


Sáng sớm hãy súc dầu như chúng em mỗi ngày 20 phút…Răng rất sạch, hết sâu răng đó.

 https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/12/DISCLAIMER.jpg

Comments are closed.