Dinh dưỡng là một thực tại vô cùng quan trọng đối với sức khỏe, nhưng rất tiếc nó ít được hiểu biết và chú trọng. Chúng ta thường ăn uống theo thói quen và khẩu vị hơn là theo sự hiểu biết khoa học giúp sống khỏe mạnh. Dưỡng sinh là môn học quan trọng và thiết thực nhất đối với cuộc sống, nhưng nó đã không bao giờ được dậy trong các trường học. Do đó, cần đưa môn dưỡng sinh vào chương trinh giáo dục ngay từ vườn trẻ để cải tiến sức khỏe và thăng tiến xã hội lành mạnh.

  1. Tầm quan trọng của việc dinh dưỡng

Thật thế, để có thể phát triển và hoạt động cơ thể con người cần có đầy đủ các chất dinh dưỡng. Chúng là những chất hay hợp chất hóa học hấp thụ được qua quá trình trao đổi chất của các thực phẩm chúng ta ăn hàng ngày. Các chất dinh dưỡng gồm các chất sinh năng lượng và các chất không sinh năng lượng. Các chất sinh năng lượng gồm các chất đạm, chất béo, và chất bột đường. Các chất không sinh năng lượng bao gồm các vitamin, các chất khoáng và nước.

Dinh dưỡng có ba mục đích chính:

  • Tạo điều kiện thuận lợi để cơ thể có sức khỏe tốt.
  • Phòng ngừa các bệnh liên quan tới ăn uống.
  • Khôi phục sức khỏe sau thời kỳ bệnh tật hay thương tích.
  1. Chất đạm (protein)

Trung bình mỗi ngày chúng ta cân nạp 118 gr protein vào cơ thể. Chất đạm protein đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động sinh lý của cơ thể như tiêu hóa thức ăn, vận chuyển oxy, hoạt động của tim, hoạt động của não bộ …

Protein có nhiều trong thức ăn từ nguồn động vật như thịt, cá, sữa, trứng… và các nguồn thực vật như các loại đậu, đặc biệt là đậu đỏ, đâu tương, lạc, vừng… Trẻ em, phụ nữ có thai và cho con bú cần nhiều protein hơn.

Protein được hấp thụ vào cơ thể dưới dạng các axít amin, là thành phần chính của các kháng thể giúp cơ thể chống lại các bệnh nhiễm khuẩn, là nguyên vật liệu xây dựng và tái tạo các tổ chức trong cơ thể. Đồng thời protein cũng là thành phần của các men và các nội tiết tố hormone rất quan trọng trong quá trình chuyển hóa của cơ thể.

  1. Chất bột (glucid)

Chất bột glucid có vai trò chuyển hóa quan trọng và là nguồn cung ứng năng lượng chính cho cơ thể.

Nguồn thức ăn chứa nhiều glucid nhất là các hạt ngũ cốc và hạt họ đậu. Nguồn glucid thường đi kèm theo một lượng tương ứng với các vitamin nhóm B, vì vậy các loại đường ngọt, gạo xay trắng quá dễ thiếu vitamin B1.

  1. Chất béo (lipid)

Chất béo lipid giúp cho cơ thể hấp thụ các vitamin, đặc biệt là các vitamin tan trong dầu như vitamin A, D, E, K và đóng vai trò quan trọng trong quá trình làm đông máu tự nhiên.

Lipid cũng là nguồn cung cấp năng lượng cho cơ thể. Chỉ cần 15-25 gr lipid mỗi ngày là có thể đáp ứng được nhu cầu của cơ thể.

Nguồn cung cấp chất béo cho cơ thể là mỡ động vật và dầu thực vật. Nếu trong mỡ động vật (trừ cá) có nhiều cholesterol thường ứ đọng gây xơ cứng thành mạch máu, thì trong dầu thực vật lại có nhiều axit béo không no, có khả năng chống lại sự phát triển của bệnh xơ vữa động mạch.

  1. Chất xơ (cellulose)

Mặc dù cơ thể không hấp thụ chất xơ, nhưng những ai ăn nhiều chất xơ cellulose, sẽ ít bì béo phì, ít bị bệnh tim mạch, phòng táo bón. Vì các chất xơ giúp đưa nhanh chất thải ra khỏi đường tiêu hóa. Tuy nhiên, cũng không nên ăn quá nhiều chất xơ, vì có thể sẽ bị cản trở việc hấp thụ các dưỡng chất cần thiết.

  1. Vitamin

Vitamin là chất hữu cơ cần thiết cho sức khỏe của cơ thể. Tuy chỉ cần một số lượng ít, nhưng chúng rất quan trọng và bắt buộc phải có trong thức ăn.

  • Vitamin A: Vitamin A giúp bảo vệ mắt và các bệnh khô mắt. Thiếu vitamin A da sẽ khô, tăng sừng hóa năng lông, bề mặt da thường nổi gai. Vitamin A còn có vai trò khá rõ rệt với miễn dịch thể và miễn dịch tế bào.
  • Vitamin D3: giúp cho việc chuyển hóa chất glucid thành năng lượng, ăn ngon miệng và không bị bệnh tê phù. Dầu cá thu là nguồn vitamin D tốt nhất, sau đó là gan động vật, trứng và bơ…
  • Nhóm vitamin B: Trong các nhóm vitamin B vai trò của folat và pyridoxine đáng chú ý hơn cả. Nếu thiếu các chất này sẽ làm chậm sự tổng hợp các tế bào tham gia vào cơ chế miễn dịch.
  • Vitamin C: Trong cơ thể, vitamin C tham gia vào các phản ứng oxy hóa khử. Đó là các yếu tố cần thiết cho tổng hợp collagen là chất gian bào ở thành mạch, mô liên kết, xương và răng.
  • Vitamin E: bảo vệ chất béo trong cơ thể không bị oxy hóa. Nó là chất oxy hóa (antioxydant) chủ yếu chống lại các gốc tự do.
  • Các chất khoáng và vi khoáng: nếu chúng ta ăn uống thiếu chất khoáng sẽ dễ sinh nhiều bệnh như thiếu máu (thiếu sắt), bị bướu cổ (thiếu i-ốt), thiếu sản men răng (thiếu fluor), còi xương ở trẻ em, xốp xương ở người lớn (thiếu canxi)…
  • Bên cạnh đó yếu tố vi lượng còn tham gia vào các quá trình chuyển hóa. Do đó yếu tố vi lượng là thành phần không thể thiếu trong các bữa ăn hàng ngày.

Khi hiểu biết rõ hơn dinh dưỡng là gì và tầm quan trọng của nó, chúng ta sẽ bảo đảm cho mình và người thân có được chế độ dinh dưỡng phù hợp hơn với nhu cầu sức khỏe của của cơ thể.

(LM Giuse Hoàng Minh Thắng – Tiến sĩ Nguyễn Dương – Lê Kim Tuyến, “Phòng chống các bệnh nan y”)

Comments are closed.