Tài liệu TKNăng

Thiên Khí Năng và Năng Lượng Vi Ba * Phần III – Ba nguyên-lý chính về việc xử-dụng Thiên-Khí-Năng để trị-liệu

Thiên Khí Năng và Năng Lượng Vi Ba * Phần III – Ba nguyên-lý chính về việc xử-dụng Thiên-Khí-Năng để trị-liệu

THIÊN-KHÍ-NĂNGNĂNG-LƯỢNG VI-BA

 Phần III – Ba nguyên-lý chính
về việc xử-dụng Thiên-Khí-Năng để trị-liệu

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2014/12/DO-HMT-chuyen-TKN.jpg

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2014/12/mo12chakra.jpg

1.  Sự Liên-Hệ quan-trọng giữa Tâm-Ý và việc chữa lành cơ-thể

  • Mãnh-Lực của Lòng Tin

Thuốc giả là một chất giả-dạng thuốc để bệnh-nhân tưởng là thuốc thật. Nó được dùng trong lúc thử-nghiệm để thuốc thật có thể được xét-nghiệm so với chất kiểm-chứng. Vì để kiểm-chứng, nó không có mục-tiêu chữa lành nhưng nó cũng có thể chữa lành, vì bệnh-nhân tin-tưởng nó là thuốc thật. Chính tâm-ý của bệnh-nhân đã chữa lành họ. Các nghiên-cứu ngày nay cho thấy khi chúng ta dùng thuốc giả mà tin là thuốc thật, não-bộ được kích-thích như chúng ta thật sự đang dùng thuốc thật, và làm nảy sinh những hóa-chất tự-nhiên của nó để trị bệnh. Đây là trường-hợp của bệnh rung Parkinson. Nguyên-nhân của bệnh này do sự trục-trặc não-bộ sản-xuất chất dopamine làm trở-ngại sự chuyển-động của cơ-bắp. Kết-quả nghiên-cứu nhận-định là bệnh-nhân dùng thuốc giả nhưng được bảo là thuốc thật dùng trị bệnh Parkinson, đã di-chuyển được dễ-dàng hơn.

Các lát-hình chụp não-bộ cũng cho thấy não-bộ có hoạt-động ở phần kiểm-soát sự di-chuyển, và hóa-chất bị thiếu đã được sản-xuất thật-sự. Sự thăng-tiến cử-động không phải chỉ là một sự-kiện tâm-lý, nhưng là một sự sản-xuất chất dopamine trong não-bộ.

Chúng ta có thể làm tăng khả-năng của thuốc giả – gọi là chế-ước. Trong một thử-nghiệm chế-ước, các khoa-học-gia cho bệnh-nhân dùng thuốc thật trong vài ngày, rồi sau đó bí-mật đổi thuốc giả. Họ nhận thấy thời-gian chế-ước càng dài, tâm-ý càng ảnh-hưởng sâu vào các hệ-thống của cơ-thể, và hậu-quả của thuốc giả càng mạnh.

  • Sự quan-trọng của Suy-Niệm

Để có thể tiếp-cận với hệ-thống năng-lượng của cơ-thể, chúng ta cần phải nới rộng khả-năng thông-thường của giác-quan – đặc-biệt là khả-năng cảm-nhận những cảm-giác tinh-diệu. Trước hết chúng ta phải cảm-nhận được sự hiện-hữu của năng-lượng – như chúng ta cảm-nhận được hơi nóng và khí lạnh. Rồi chúng ta có thể cảm-nhận được năng-lượng di-chuyển bên trong và bên ngoài cơ-thể. Sau đó chúng ta bắt-đầu kinh-nghiệm được cảm-giác năng-lượng bị tắc-nghẽn hoặc thiếu-hụt trong cơ-thể.

Sau khi chúng ta học được cách cảm-nhận năng-lượng, chúng ta bắt-đầu học cách vận-dụng nó. Chúng ta sẽ nhận ra tâm-ý của chúng ta có thể thay đổi sự vận-chuyển của năng-lượng.

Vì vậy, sự suy-niệm không những làm cho tâm-thần được tĩnh, cơ-thể được thư-giãn mà còn giúp chúng ta có khả-năng cảm-nhận và làm chủ được sự vận-hành năng-lượng của bản-thân. Điểm then chốt để suy-niệm được kết-quả dựa vào sự tập-trung ý-chí; khả-năng loại bỏ tạp-niệm để có thể đạt tới giác-ngộ.

  • Suy-Niệm thay đổi não-bộ

Một cuộc nghiên-cứu tại Massachusetts General Hospital vào năm 2005 cho thấy suy-niệm đã làm tăng-trưởng bề dày của vỏ trước thùy trán của não-bộ – phần kiểm-soát sự tập-trung ý-chí, sở-thích, và tình thương.

Năm 1998, các khoa-học-gia tại Salk Institute ở La Jolla, California, lần đầu-tiên tìm được những tế-bào gốc của các neurons trong phần hải-mã não-bộ của con người, chứng tỏ sự-kiện neuron sinh-sản từ các tế-bào gốc là có thật. Bây giờ chúng ta biết là sống một cuộc sống khỏe về thể-lý, tâm-thần, và những khuyến-khích xã-hội có thể phục-hồi não-bộ. Các kết-quả nghiên-cứu cũng cho thấy là khi chúng ta vận-động, cảm thấy bị kích-thích, phấn-khởi, và say mê, cảm nhận được sự tuyệt-diệu, hoặc ngay cả kinh-nghiệm về những trạng-thái tâm-linh, là lúc sự-kiện neuron sinh-sản xảy ra một cách tự-nhiên.

  • Khoa-học đằng sau sự liên-hệ giữa Tâm-Ý và việc chữa lành Cơ-Thể

Là một thành-phần trong tiến-trình thay-đổi não-bộ, ý-niệm tạo ra các hoá-chất trong não-bộ, được gọi là chất dẫn-truyền thần-kinh. Khi bạn nghĩ tới một điều gì, các chất dẫn-truyền thần-kinh truyền đi từ đầu đọt nhánh này của một neuron tới đầu đọt nhánh kia của một neuron khác. Điều nầy tạo ra một điện-kích được gọi là neuron khai-hỏa. Khi chúng ta lập lại một ý-niem nhiều lần, một chất protein được kích-thích và tìm đường vào trung-tâm của neuron, và gặp DNA tại đó. Nó tác-động vào một số genes của DNA, tạo ra các chất proteins làm nảy sinh những đọt nhánh mới giữa các neurons. Như vậy, khi lập lại một ý-niệm nhiều lần sẽ làm sinh ra nhiều tiếp-cận mới giữa các neurons, và đó là nguyên-do làm não-bộ thay-đổi theo ý-niệm và kinh-nghiệm. Tiến-trình này xảy ra rất nhanh. Một điều nên ghi nhận ở đây là các genes được tác-động bởi một trạng-thái tâm-thần chỉ trong vài phút.

Một loại hóa-chất khác, được gọi là peptid thần-kinh cũng được tạo ra trong não-bộ. Chúng tiếp-cận với các neurons bằng cách bám vào các diện-tích gọi là mặt tiếp-nhận, thật ra chỉ là các chỗ hội-tụ. Neurons có hàng ngàn mặt tiếp-nhận cho phép các peptid thần-kinh có hình dáng, chiều kích, và giao-động từ-trường khác nhau bám vào.

Các peptid thần-kinh không phải chỉ quanh-quẩn trong não-bộ. Các chất này đi vào máu và di-chuyển khắp cơ-thể và mang những nhiệm-vụ quan-trọng. Nhiều peptid thần-kinh cũng được tạo ra trong cơ-thể, và chúng tìm đường trở về não-bộ. Thí-dụ, một số tế-bào miễn-nhiễm tạo ra peptid thần-kinh. Như vậy, cơ-thể ảnh-hưởng tới tâm-thần, và tâm-thần cũng ảnh-hưởng tới cơ-thể. Đây là một tiến-trình hai chiều !

Cũng như tâm-thần ảnh-hưởng các genes của DNA trong neurons, nó cũng ảnh-hưởng các genes của DNA trong các tế-bào ở khắp cơ-thể. Khi các peptid thần-kinh bám vào các mặt tiếp-nhận, các tín-hiệu được trao cho các tế-bào. Khi tín-hiệu đi tới DNA, các genes sẽ bật hoặc tắt, hoặc trở nên sáng hơn hay tối đi một chút.

Theo cách nói trị-liệu, các genes được bật lên và proteins được tạo ra để làm thành những tế-bào mới, da, gân, máu, hoặc xương. Chúng cũng tạo ra proteins để trợ-giúp tác-động miễn-nhiễm.

Việc chữa lành các vết thương rất tùy-thuộc trạng-thái tâm-thần và cảm-xúc, và được biết là sự đe-dọa hoặc tinh-thần căng-thẳng làm chậm sự chữa lành. Khi chúng ta hình-dung được sự chữa lành cơ-thể, tâm-ý chúng ta ảnh-hưởng tới các genes của chúng ta, giúp cho sự phục-hồi nhanh chóng phần cơ-thể bị thương hoặc bị bệnh.

Vì ảnh-hưởng to lớn của tâm-ý đối với các genes nên chúng ta không nên sống trong sợ-hãi vì bị đau tim hoặc ung-thư, dù trong gia-đình có vết tích của các bệnh này. Một sự thay-đổi về thái-độlối sống cũng có thể đánh bại nhiều genes xấu mà bạn đã thừa-hưởng.

Sự-kiện tâm-thần ảnh-hưởng tới các genes cho chúng ta thấy nó cũng có thể có khả-năng ảnh-hưởng tới sự tăng-trưởng của các tế-bào gốc, vì các tế-bào gốc có DNA. Khi các genes được tác-động, các tế-bào gốc tăng-trưởng thành các tế-bào mà chúng được dự-định trở-thành.

  • Ý-thức cũng là năng-lượng

Theo lý-thuyết siêu-giây (superstring theory), ý-thức có thể coi như gồm nhiều sợi giây cực nhỏ, giao-động, kéo theo nhau, có tần-số cộng-hưởng. Những sợi giây này, xuất-phát từ những khối lượng-tử và nguyên-tử vật-chất (i.e., điện-tử và trung-hòa-tử), là những thành-phần của điện-năng tạo nên tri-giác của con người và năng-lực-trường cộng-hưởng cùng một lúc tỏa ra từ cơ-thể con người như đã nói ở trên.

Sự hợp-nhất tâm-thần và thể-lý, và làm thế nào có thể hòa-hợp thành năng-lượng vi-ba để có thể tiếp-cận với mọi sự-vật khác trong vũ-trụ, là nền-tảng của điều gọi là “Tiếp-Cận Vũ-trụ”. Hơn nữa, sự giao-động của năng-lượng kết-hợp (i.e., giao-động của các sợi giây có tần-số cộng-hưởng kết-hợp để tạo thành một điện-từ-trường tác-động ở một tần-số nhất-định) làm sinh ra vùng ảnh-hưởng chung quanh phần thể-lý. Một sự biểu-hiện năng-lượng của ý-niệmtrực-giác và/hoặc cảm-xúc do chúng lộ ra như một sự đáp-trả cho một sự kích-thích riêng biệt.

Tóm lại, có sự liên-hệ giữa lý-thuyết siêu-giây, hậu cơ-học lượng-tử, cơ-thể-học, sinh-lý-học, tâm-lý-họctin-học trong lãnh-vực truyền-thông giữa con người với nhau. Cơ-thể của chúng ta được coi là những ăng-ten để có thể cùng một lúc truyền-đạt điện-từ-trường tới và nhận điện-từ-trường từ môi-trường chung quanh, bao gồm mọi người trong môi-trường này, và năng-lượng này ảnh-hưởng tới chúng ta cả về ý-niệm lẫn cảm-xúc.

2. Nguyên-Lý Đồng Khí Tương-Cầu

      –  Mọi sự-vật đều giao-động

Định-Luật phổ-quát này nói rằng mọi sự-vật trong Vũ-Trụ di chuyển và giao-động – ở một vận-tốc này hay trong một vận-tốc khác. Không có vật nào ở trạng-thái tĩnh. Mọi sự-vật chung quanh bạn đang giao-động theo một tần-số nầy hoặc ở một tần-số khác, kể cả bạn. Tuy-nhiên, tần-số của bạn khác hẳn với tần-số giao-động của các sự-vật trong vũ-trụ – có nghĩa là bạn có vẻ bị ngăn cách với những sự vật bạn nhìn thấy ở chung quanh – con người, súc vật, cây cỏ, v.v. nhưng thật ra bạn không bị ngăn-cách – bạn đang sống trong một đại-dương năng-lượng – như tất cả mọi sự vật. Chúng ta đều được liên-kết với nhau ở mức-độ thấp nhất – một mực-độ mà Giáo-Sư John Hagelin gọi là lực-trường đồng-nhất.

Mọi sự vật đều có tần-số giao-động riêng. Ý-niệm của chúng ta phát ra theo một tần-số giao-động nào đó và là một phần của giao-động vũ-trụ. Định-Luật Hấp-Dẫn, dựa trên Định-Luật Giao-Động, nói rằng chúng ta hấp-dẫn những cái gì chúng ta truyền đi. Như vậy, năng-lượng dương hấp-dẫn năng-lượng dương và năng-lượng âm hấp-dẫn năng-lượng âm.

Ý- niệm của chúng ta là những năng-lượng truyền đi theo các vũ-trụ-tuyến xâm-nhập vào mọi tầng lớp không-gian và thời-gian. – như vậy bạn có thể hấp-dẫn vào bạn những điều gì bạn muốn và mong ước.

       –  Luật Đồng-Khí Tương-Cầu và Luật Vi-Ba đi song hành

Khi bạn biết là ý-niệm và cảm-xúc của bạn giao-động (Luật Giao-Động) và bạn biết là “giống nhau thì hấp-dẫn nhau” thì bây giờ bạn có thể bắt-đầu thay đổi đời-sống của bạn bằng cách thay-đổi ý-niệm và cảm-xúc của bạn. Tuy nhiên, nhiều người trong chúng ta đã được giáo-huấn từ nhỏ để có những ý-niệm và cảm-xúc làm cho chúng ta luôn lo-lắng, sợ-hãi, chán-nản, v.v.

Luật đồng khí tương cầu nhấn mạnh là mọi vật-thể có bản-chất giống nhau sẽ tự-nhiên lại gần nhau và hấp-dẫn lẫn nhau vào trong lực-trường của chúng. Điều này áp-dụng cho mọi vật-thể trong Vũ-Trụ, kể cả ý-niệm. Ý- niệm cũng là năng-lượng, và có sức hấp-dẫn các chất-liệu có cùng một tần-số giao-động. Danh-từ tổng-thể, khi nói về sức-khoẻ và dưỡng-sinh của con người, không những chỉ có nghĩa là một sự cân bằng về thể-lý và tâm-thần, mà còn cả về khía cạnh tâm-linh. Vì sự thật, mãnh-lực tâm-linh đã mang lại sức sống cho phần thể-lý là cơ-thể của chúng ta. Một nền y-khoa chối bỏ sự-kiện này là không hoàn-hảo, vì nó đã bỏ qua một phẩm-chất căn-bản của sự hiện-hữu của con người – đó là chiều-kích tâm-linh.

Chúng ta là một sinh-vật đa-chiều-kích của năng-lượng và ánh sáng, mà thân xác chỉ là một thành-phần của một hệ-thống sinh-động lớn hơn. Nói một cách khác, con người là sự kết hợp phức-tạp của tâm-thần/thể xác/tâm-linh, hiện-hữu trong sự cân-bằng giao-động liên-tục của một thực-trạng năng-lượng đa-chiều-kích. Các mô cấu-tạo nên thể xác chúng ta không những được nuôi sống bằng dưỡng-khí, glucose, và các hóa-chất dinh-dưỡng, nhưng cũng bởi các năng-lượng vi-ba cưu-mang phần thể-lý với các đặc-tính đời sống và sáng-tạo. Những năng-lượng tinh-diệu hiện-hữu theo thứ-tự tầng lớp, và tác-động từ tầng cao nhất trở xuống tới khi chúng biểu-thị ở mức-độ phần thể-lý.

3. Nguyên-Lý Đồng-Thanh Tương-Ứng

Nếu bạn muốn hấp-dẫn một cái gì, bạn cần phải ở trên cùng một tần-số giao-động với nó. Luật Đồng-Thanh Tương-Ứng nói là mọi vật có cùng một tần-số giao-động đều nhận biết nhau và hành-động cộng-hưởng. Khi chúng ta gửi ra ngoài một tín-hiệu trên một tần-số nào đó, qua một ý-niệm hoặc tình-cảm, vũ-trụ sẽ đáp-ứng lại bằng mọi sự-cố dội lại theo tần-số đó. Như vậy, chúng ta phải học cách làm dội lại những điều chúng ta muốn, thay vì làm dội lại những nghi-vấn, chán-nản, sợ-hãi, v.v.

4.  Các đặc-tính của liệu-pháp dùng Thiên-Khí-Năng trị-liệu

     Vì ý-nghĩ phát-sinh từ bộ não và tâm-niệm phát-sinh từ trái tim cũng là các vi-ba, mạnh hay yếu tùy theo tình-trạng tâm-linh và cảm-nghĩ của từng người, nên TKN bị ảnh-hưởng nhiều vì các yếu-tố này. Chính vì vậy, tình thương-yêu bệnh-nhân là căn-bản và việc chú tâm khi xử-dụng TKN (Tâm -Ý dẫn Khí) rất quan-trọng trong việc vận-hành TKN để trị-liệu. Nên nhớ, TKN là quà tặng cho không của Thượng-Đế vì thương-yêu loài người, nên tình thương-yêu và việc chú-tâm phải dẫn tới sự phó-thác trọn vẹn cho Thượng-Đế trong khi trị-liệu.

Các đặc-tính của liệu-pháp dùng TKN hay năng-lượng Vi-Ba để trị-liệu được tóm-tắt như sau:

  • Tình yêu là một giao-động phổ-quát. Tình-yêu cảm-thông mọi sự-vật, tác-động trên mọi tầng lớp và biểu-thị bản-chất thật của chúng ta. Nó là nền-tảng của mọi chữa lành và là sức mạnh chính-yếu của sinh-lực con người.
  • Người trị-liệu dùng tâm-niệmphương-pháp vận-hành TKN để tạo ra một năng-lực-trường mạnh bao bọc vùng cơ-thể cần được trị-liệu. Sự “kéo theo” và “cộng-hưởng” làm cho vùng được trị-liệu của bệnh-nhân thay-đổi tần-số giao-động cho phù-hợp với tần-số giao-động của người trị-liệu. Không ai thực-sự có thể chữa lành cho người khác. Người trị-liệu chỉ cần cảm-nhận được tần-số cộng-hưởng và giữ nguyên tần-số giao-động này và để cơ-thể của bệnh-nhân tự chữa lành nhờ sự thông-mình nội-tại của nó.
  • Tin tưởng vào tiến-trình chữa lành là cần-thiết. Trong thời-gian trị-liệu, bệnh-nhân có thể bị tạm-thời đau-đớn hoặc có những triệu-chứng sợ-hãi, tất cả đều là phản-ứng của sự chữa lành. Sinh-lực và tiến-trình chữa lành có hành-động phức-tạp và khôn-ngoan ở ngoài các quan-niệm và sự hiểu-biết của chúng ta. Chúng ta – người trị-liệu và bệnh-nhân – chỉ cần chú-tâm tới sự thông-minh nội-tại của cơ-thể và tập-nã sự đau-đớn.
  • Có sự hòa-hợp về hiệu-quả trị-liệu khi nhiều người thực-hành TKN hợp nhau để cùng chữa trị cho một bệnh-nhân. Phương-pháp này có hiệu-quả rất mạnh và có thể mang lại những trường-hợp chữa lành kỳ-diệu.
  • Mỗi người thực-hành TKN có ân-sủng riêng trong đời sống, và do đó có khả-năng chữa lành riêng biệt. Có người được ân-sủng chữa lành một số trường-hợp bệnh đặc-biệt.

 Kết-Luận:

     TKN là năng-lượng vi-ba Thượng-Đế ban tặng cho mỗi người từ bẩm-sinh, tất cả chúng ta ai cũng có. Nó chi-phối mọi hoạt-động của các tế-bào và các hạch nội-tiết trong cơ-thể con người. Tất cả chúng ta đều có thể tự tập-luyện để cảm-nhận, phát-huy và điều-khiển hệ-thống khí-năng trong cơ-thể. Sự hữu-hiệu của việc điều-khiển tùy-thuộc vào khả-năng cảm-nhận, tình-trạng tâm-linh và sự chịu khó tập-luyện của mỗi người. Không có bí-mật nào chung quanh hồng-ân này mà qua thời-gian chúng ta đã lãng-quên. Chỉ vì tính tự-cao, tự-đại và không chịu học-hỏi mà chúng ta đã không biết khai-thác nó để có thể giúp ích cho đời sống của chính mình và đời sống của mọi người chung quanh chúng ta.

     Khi dùng TKN để trị-liệu, chúng ta luôn nhớ Tâm-Ý dẫn Khí, Đồng-Khí Tương-Cầu Đồng Thanh Tương-Ứng là ba nguyên-tắc chính của việc trị-liệu bằng TKN. Đồng-thời một điều tâm-niệm cho tất cả những ai xử-dụng TKN để trị-liệu là, vì TKN là quà tặng cho không của Thượng-Đế để loài người có thể sống khoẻ và sung-mãn, thì việc dùng TKN để trị-liệu là một sứ-vụ bác-ái, do tình thương của Thượng-Đế với loài người, và bổn-phận giữa chúng ta với nhau. Nên nhớ, chúng ta không ai có thể tự mình chữa lành cho người khác được nếu không có hồng-ân của Thượng-Đế và sự cộng-tác của bệnh-nhân. Chính sự đồng-khí tương cầu (sự kéo theo)đồng-thanh tương ứng (sự cộng-hưởng) của các luồng khí-năng giữa người trị-liệu và bệnh-nhân đã giúp cho tiến-trình trị-liệu xảy ra; nhưng muốn có kết-quả, bệnh-nhân phải tin-tưởng mãnh-liệt vào tiến-trình chữa lành, và người trị-liệu phải cảm-nhận được tần-số cộng-hưởng, chú-tâm tới sự thông-minh nội-tại của thể-lý qua việc theo dõi các thay-đổi trên cơ-thể bệnh-nhân. Điều này chỉ xảy ra khi người tri-liệu và bệnh-nhân có tâm đầu, ý-hợp để điều-khiển sự vận-hành các luồng khí-năng và duy-trì được tần-số cộng-hưởng.

Tài-liệu tham-khảo:

 [1] Human Energy – Ch 03

 [2] Quantum Healing – Deepak Chopra, MD

[3] Thuật Dưỡng-Sinh: Tự Chữa Bệnh Bằng Thiên-Khi-Năng (Linh-mục GiuSe Hoàng Minh Thắng)

 [4] Vibrational Medicine – William A. Tiller, Ph.D.

 Tiến Sĩ Nguyễn Dương
Nhóm Tông-đồ Mục-vụ Sức-khỏe

by Tháng Mười Hai 10, 2014 Comments are Disabled Tài liệu TKNăng, Thiên Khí Năng
Thiên Khí Năng và Năng Lượng Vi Ba * Phần II – Thiên Khí Năng và Y-Khoa Vi-Ba

Thiên Khí Năng và Năng Lượng Vi Ba * Phần II – Thiên Khí Năng và Y-Khoa Vi-Ba

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/09/tkn.gif

THIÊN-KHÍ-NĂNGNĂNG-LƯỢNG VI-BA

 Phần II Thiên Khí Năng và Y-Khoa Vi-Ba

Ở mọi tầng lớp, vũ-trụ gồm nhiều nhịp-điệu. Những chu-kỳ giao-động trong vũ-trụ có mức-độ to lớn hầu như không tưởng-tượng được, có thời-gian tính theo hàng năm ánh sáng. Ở một giới-hạn khác là những giao-động rất nhỏ của nguyên-tử của các phân-tử, có mức giao-động hàng trillions (1012) lần trong một giây đồng hồ. Đời sống chúng ta bị chìm đắm trong giao-phổ này, và đóng góp những giao-động riêng biệt vào đó.

         Năng-lượng vi-ba trong y-khoa

Việc dùng điện và từ-trường trên các mô mềm đã được kiểm-nhận bởi Sisken & Walker vào năm 1995. Những tác-động sau đây đã được nhận thấy:

o   Làm tăng-trưởng sự hình-thành mao-quản

o   Làm giảm chứng hoại-tử

o   Làm giảm sưng

o   Làm giảm đau

o   Phục-hồi chức-năng nhanh hơn

o   Làm giảm chiều sâu, diện-tích, và sự đau đớn ở các vết thương ngoài da

o   Làm giảm cơ-bắp bị mất sau khi giải-phẫu giây chằng (tốt nhất ở 10 Hz )

o   Tăng-trưởng sức căng của các giây chằng

o   Giúp nhanh chóng phục-hồi các chức-năngtái-tạo các giây thần-kinh

   Dùng từ-trường trị-liệu có nhiều lợi-điểm hơn dùng điện-trường, vì nó được coi như không xâm-phạm, và có thể được dùng để trị-liệu cùng một lúc các mô mềm và cứng. Mỗi mô đáp-ứng với một tần-số giao-động khác nhau. Trong khi nhiều loại tín-hiệu được dùng, y-khoa đặc-biệt chú-ý tới các mạch-từ-trường có năng-lượng thấp và tần-số cực thấp (dưới 100 Hz). Các tần-số nầy tương-tự như các tần-số các vi-ba phát ra từ bàn tay của các người tập thiên khí năng, khí-công và các phương-pháp tương-tự. Hơn nữa, lực-trường phát ra bởi các thực-tập-viên không có tần-số vững, nhưng quét hoặc thăm-dò qua một miền các tần-số mà các chuyên-viên nghiên-cứu y-khoa đã xác-định có hiệu-quả để trị-liệu các mô mềm và cứng.

Năm 1992, Seto và đồng-nghiệp công-nhận có một từ-trường sinh-học lớn, phát-xuất từ bàn tay của các thực-tập-viên luyện-tập võ-thuật. Các từ-trường này có cường-độ vào khoảng 10-3 gauss, nghĩa là khoảng 1.000 lần mạnh hơn từ-trường sinh-học của một con người mạnh nhất phát sinh từ trái tim là 10-6 gauss, và khoảng 1.000.000 lần mạnh hơn từ trường phát sinh từ não-bộ. Các nhà nghiên-cứu cũng nhận thấy trái tim (Tâm-Ý) phát-sinh nhiều tần-số năng-lượng khác nhau, lan-truyền qua hệ-thống tuần-hoàn tới mọi tế-bào trong cơ-thể. Năng-lượng vi-ba trị-liệu hữu-hiệu vì nó đưa các tín-hiệu điều-kiểm tới tận các mô. Điều nầy khởi-động một loạt các tác-động từ màng bọc tới trung-tâm các tế-bào và tới tận các genes, ở đó các thay-đổi cá-biệt được xảy ra. Các nhận-định này được giải-thích là một diễn-tiến chữa lành được khởi-động nhờ các dữ-kiện điều-kiểm chứa đựng trong các tín-hiệu, ở các tần-số cá-biệt.

         Y-Khoa Vi-Ba (Vibrational Medicine) [2]

Theo Tiến-Sĩ William A. Tiller thì khoa-học và Tây-Y, cho tới gần đây, vẫn nghĩ rằng các sinh-vật sống-động phần lớn là dựa trên tiến- trình của các phản-ứng sau:

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2014/12/hinh1.png

     Khi một cơ-thể không vận-hành đúng, nguyên-do được gán cho những hư-hỏng về cấu-trúc trong cơ-thể do sự bất cân-bằng sinh-hóa. Người ta nhìn nhận mức-độ nội cân bằng sinh-hóa tùy-thuộc vào một sự liên-hệ sâu xa với một cơ-cấu năng-lượng trong cơ-thể, nhưng không xác-định rõ ràng sự liên-hệ này. Những hiểu-biết gần đây đã đưa tới giả-thuyết có sự hỗ-tương giữa các trạng-thái sinh-hóa và từ-trường cơ-thể. Mặc dầu chúng ta chưa hiểu rõ chi-tiết điện-năng và từ-trường tác-động vào sự chuyển-hóa tế-bào, nhưng rõ ràng là hệ-thức (1) phải được thay-thế bằng:

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2014/12/hinh2.png

     Hệ-thức (2) còn khiếm-khuyết vì đã bỏ qua hiệu-quả của tâm-thần. Khi bị thôi-miên, cơ-thể con người đã biểu-lộ được sức mạnh và sự bền-bỉ làm chứng cho sự liên-hệ giữa tình-trạng vô-ý -thức và cấu-trúc. Nhiều lãnh-vực khác, chưa được xác-định rõ ràng, hầu như cũng tham-dự một phần vào phản-ứng dây chuyền này. Chúng ta hãy gọi tất cả những điều trên dưới một tên gọi chung là năng-lực-trường tinh-diệu và viết hệ-thức (2) lại như sau:

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2014/12/hinh3.png

     Hệ-thức (3) là một sự trình-bầy hợp-lý cho một cơ-thể sống-động, một tế-bào, hoặc một mạc/màng mỏng. Mỗi yếu-tố trong phản-ứng dây chuyền giữ các điều-kiện nội-cân-bằng qua sự trợ-giúp tức-thời của yếu-tố bên phải nó. Sự phát sinh một sự mất cân-bằng quan-trọng tại bất cứ một yếu-tố nào trong dây chuyền sẽ dẫn đến, theo thời-gian, một sự gián-đoạn nội-cân-bằng cho phần-tử ở bên trái nó.

     Cả cấu-trúc lý-thuyết và thực-nghiệm nghiên-cứu về năng-lực tinh-diệu đều là những yếu-tố cần-thiết cho việc phát-triển một nền-tảng khoa-học đúng cho liệu-pháp đồng-căn (homeopathy). Một giả-thuyết của phần trước cho phép thí-nghiệm trong phần thực-nghiệm, nhờ vậy một tiến-trình chỉnh-sửa có thể được áp-dụng để tiến dần tới mục-tiêu. Vì vậy, hệ-thức (3) phải được thay-đổi như sau:

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2014/12/hinh4.png

Y-khoa đối-chứng (allopathic medicine) đi theo lộ-trình bên trên, giữa năng-lực-trường tinh-diệu và chức-năng của con người; trong khi y-khoa đồng-căn (homeopathic medicine) đi theo lộ-trình bên dưới, giữa hai lãnh-vực này.

Tất cả chúng ta là phần-tử của thần-khí, không bị phá-hủy và vĩnh-viễn. Chúng ta có một bộ máy nhận-thức vô song là tâm-trí. Trong một mẫu lý-thuyết, tâm-trí gồm ba mực-độ – trực-giác, trí-tuệ,tâm-linh. Tâm-trí tạo ra một phương-tiện để thực-nghiệm (một vũ-trụ, một thế-giới, một cơ-thể) và mỗi cá-nhân, vì là một nhân-vị tâm-linh có bộ máy nhận-thức, đầu-tư trong phương-tiện này trong khi nó chạy liên-tục theo một lộ-trình định-sẵn. Nhân vị được liên-kết với phương-tiện qua hệ tình-cảm. Những chất-liệu dùng để cấu-tạo phương-tiện này có hai bản-chất liên-hợp. Một phần có bản-chất điện-tính và di-chuyển chậm hơn vận-tốc ánh sáng điện-từ, có trọng-khối dương và năng lượng dương. Nó tạo nên phần thể-lý của phương-tiện. Phần kia, có bản-chất từ-tính và di-chuyển nhanh hơn vận-tốc ánh sáng điện-từ, có trọng khối âm và năng-lượng âm. Nó tạo nên phần etheric của phương-tiện. Chúng ta biết nhiều về phần thể-lý của phương-tiện, nhưng biết rất ít về phần liên-hợp của nó (phần etheric).

       Cơ-thể-học đa-chiều-kích

Mọi thứ, thể-lý cũng như năng-lực tinh-diệu, đều có tần-số giao-động. Các chất-liệu có tần-số khác nhau có thể cùng hiện-hữu trong cùng một không-gian, tương-tự như năng-lượng ở các tần-số khác nhau (chẳng hạn, radio và TV) có thể cùng hiện-hữu không hủy-diệt nhau trong cùng một không-gian. Phần etheric và phần thể-lý cũng vậy, ở trong các tần-số khác nhau, choàng qua nhaucùng hiện-hữu trong cùng một không-gian.

Hệ-thống kinh mạch châm-cứu là một hệ-thống mao-quản có cấu-trúc tinh-vi, nối liền phần thể-lý với phần etheric, tạo nên vùng tiếp-cận giữa thế-lý và etheric. Sự rối loạn năng-lượng trong phần etheric và trong hệ-thống kinh-mạch châm-cứu đi trước sự phát-động bệnh-tật từ thể-lý/tế-bào.

Các chakras là những trung-tâm năng-lượng chuyên-biệt trong cơ-thể tinh-diệu, mỗi chakra liên-hệ tới một trung-tâm thần-kinh và nội-tiết chính trong phần thể-lý của cơ-thể. Các chakras hoạt-động như các máy biến-đổi năng-lượng làm giảm năng-lượng tinh-diệu và biến-đổi chúng thành các hoạt-động của tế-bào trong cơ thể. Sự liên-hệ giữa hệ thần-kinh, sinh-lý nội-tiết của các chakras được tóm-tắt như sau:

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2014/12/hinh5.png

 Các chakras được nối liền với nhau và với các trạng-thái thể-lý khác nhau qua các sợi năng-tính gọi là “nadis”, làm thành một hệ-thống chakra-nadi.

Thể tinh-tú cũng là một thể tinh-diệu khác, tương-tự như thể etheric, gồm các chất-liệu có tần-số giao-động cao hơn chất-liệu etheric. Nó cũng bao chùm lên trên khuôn bọc “thể-lý-etheric”. Sự trở-ngại vận-hành trong thể tinh-tú do sự mất cân-bằng tình-cảm có thể làm cản-trở sự di chuyển năng-lượng qua các chakras, đưa tới sự mất cân-bằng ở các hạch nội-tiết và tạo ra bệnh.

Y-khoa vi-ba coi con người như một sinh-vật đa-chiều-kích gồm các hệ-thống thể-lý/tế-bào hỗ-tương tác-động qua sự điều-hòa phức-tạp của các năng-lực-trường. Y-khoa vi-ba cố-gắng chữa lành bệnh tật bằng cách vận-dụng các năng-lực-trường tinh-diệu qua việc đưa năng-lượng vào cơ-thể, thay vì vận-dụng các tế-bào và các bộ-phận cơ-thể qua việc dùng thuốc và giải-phẫu.

Ở mức-độ căn-bản, đời sống lệ-thuộc sự tương-quan giữa các phần-từ qua sự giao-động trong các lực-trường. Hầu như tất cả những điều chúng ta biết về các sinh-vật đều dựa vào sự phân-tích các giao-động.

Trong một cơ-thể sống-động, mỗi điện-tử, nguyên-tử, hóa-năng kết-hợp, phân-tử, tế-bào, mô, bộ-phận (và cơ-thể là phần tổng-thể) có đặc-tính giao-động riêng của nó. Vì cấu-trúc của sinh-vật và chức-năng có trật-tự, các giao-động sinh-hoá được tổ-chức một cách có ý-nghĩa, và chúng chung góp các dữ-kiện vào một hệ-thống giao-động bao trùm cơ-thể và ra ngoài không-gian chung quanh. “Y-khoa năng-lượng” (energy medicines) và “Y-khoa Vi-Ba” (vibrational medicines) tìm hiểu cái khung đầy năng-tính liên-tục này, và tiếp-cận với nó để giúp việc trị-liệu được dễ-dàng.

Các phân-tử trong cơ-thể và các giao-động của chúng điều-hòa các tiến-trình của sự sống con người. Mọi sự-cố xảy ra trong cơ-thể đều do các phân-tử tác-động trên các phân-tử khác. Bất cứ một vật-thể nào cũng có một tần-số giao-động tự-nhiên nào đó. Khi hai vật-thể có tần-số giao-động tự-nhiên giống nhau, chúng có thể tiếp-cận nhau mà không cần đụng chạm, cái nọ kéo theo cái kia. Trong điện-từ-học, sự giao-tiếp này sinh ra hiện-tượng cộng-hưởng.

        Hệ-thống Năng-Lượng Sinh-Động của con người

Danh-từ tổng-thể, khi nói về sức-khoẻ và dưỡng-sinh của con người, không những chỉ có nghĩa là một sự cân bằng về thể-lý và tâm-thần, mà còn cả về khía cạnh tâm-linh. Vì sự thật, mãnh-lực tâm-linh đã mang lại sức sống cho phần thể-lý là cơ-thể của chúng ta. Một nền y-khoa chối bỏ sự-kiện này là không hoàn-hảo, vì nó đã bỏ qua một phẩm-chất căn-bản của sự hiện-hữu của con người – đó là chiều-kích tâm-linh.

Chúng ta là một sinh-vật đa-chiều-kích của năng-lượng và ánh sáng, mà thân xác chỉ là một thành-phần của một hệ-thống sinh-động lớn hơn. Nói một cách khác, con người là sự kết hợp phức-tạp của tâm-thần/thể xác/tâm-linh, hiện-hữu trong sự cân-bằng giao-động liên-tục của một thực-trạng năng-lượng đa-chiều-kích. Các mô cấu-tạo nên thể xác chúng ta không những được nuôi sống bằng dưỡng-khí, glucose, và các hóa-chất dinh-dưỡng, nhưng cũng bởi các năng-lượng vi-ba cuu-mang phần thể-lý với các đặc-tính đời sống và sáng-tạo. Những năng-lượng tinh-diệu hiện-hữu theo thứ-tự tầng lớp, và tác-động từ tầng cao nhất trở xuống tới khi chúng biểu-thị ở mức-độ phần thể-lý.

HỆ-THỐNG NĂNG-LƯỢNG SINH-ĐỘNG CỦA CON NGƯỜI                      https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2014/12/hinh-6.jpg

 Bộ máy tổng-hợp điều-hòa sự vận-hành các năng-lượng cao vào phần thể-lý gồm chính-yếu là hệ-thống chakra-nadivùng giao-tiếp thể-lý-etheric. Vùng giao-tiếp thể-lý-etheric là cầu nối độc-nhất của các năng-lượng tinh-diệu, bao gồm hệ-thống kinh-mạch châm-cứu. Nó nối các bộ-phận cơ-thể/tế-bào với các năng-lượng chức-năng của thể etheric. Thể etheric là một năng-lực-trường tự-hữu gìn-giữ thứ-tự và ấn-định cơ-cấu bên trong khuôn-khổ tế-bào của phần thể-lý. Những năng-lượng etheric là những bộ-phận dẫn sóng điều-khiển sự cấu-trúc các tế-bào và chức-năng. Chúng phối-hợp nhịp-nhàng các hoạt-động đời sống qua các giao-động, sự di-truyền và các cơ-cấu tế-bào tinh-diệu khác.

Thêm vào đó, các năng-lượng có tần-số cao đi vào qua các chakras được phân-phối tới các bộ-phận liên-hệ trong cơ-thể bởi một hệ-thống nadis tinh-vi. Năng-lượng vi-ba cao đi vào cung-cấp một ảnh-hưởng dinh-dưỡng và có tổ-chức tới các tế-bào của phần thể-lý, giúp cho sự duy-trì quân-bình và trật-tự ở mức-độ các tế-bào trong cơ-thể. Sự quân-bình tổng-quát và sức-khỏe của cơ-thể con người là sự tổng-hợp của một sự quân-bình và phối-hợp vận-hành của cả hai phần thể-lý và hệ-thống điều-hòa nội-cân-bằng cấp cao. Nếu có một trục-trặc xảy ra tại bất-cứ mức-độ nào trong đẳng-cấp thể-lý năng-tính, cơ-thể bị suy-sụp và bệnh-tật có thể xảy ra. Vì vậy sức-khoẻ là sự xếp-đặt đúng, cân-bằng, và phối-hợp của các thể năng-lượng tinh-diệu cao và lực-trường với phương-tiện thể-lý.

         Quan-niệm sinh-động về bệnh tật và sức khoẻ trong Y-khoa Vi-Ba

Y-khoa Vi-Ba nhìn-nhận cơ-thể con người có các chức-năng sinh-hóa. Y-khoa Vi-Ba nhìn các bộ-phận cơ-thể vận-hành theo sự thông-minh tự-tại của chúng và khả-năng chúng tiến-hành các loại tín-hiệu khác nhau. Đa-số tín-hiệu các bộ-phận nhận được ở dạng hóa-tín giúp điều-hòa chức-năng của mỗi bộ-phận trong khuôn-khổ nhu-cầu hàng ngày của cơ-thể. Tuy-nhiên các bộ-phận và tế-bào cấu-tạo chúng cũng thông-tin với nhau dưới dạng khác hóa-tín có mang các thông-điệp. Các tế-bào của chúng ta thông tin cho nhau qua các thông-điệp có ám-hiệu mang bởi hormonesphần-tử sinh-hóa, cũng như qua các điện-tín (truyền đi bởi các giây thần-kinh của cơ-thể), và qua các tín-hiệu ánh sáng yếu. Các tế-bào của cơ-thể dường như có sự thông-minh tự-tại cho phép chúng hiểu và xử-dụng thông-điệp có ám-hiệu này dưới nhiều dạng khác nhau để gìn-giữ cơ-thể khỏe mạnh.

Con người là những sinh-vật có năng-tính đặc-biệt. Đời sống của chúng ta được cưu-mang bởi một sự cân-bằng tế-nhị của các dạng năng-lượng khác nhau mà chúng ta hấp-thụ để có thể nuôi-dưỡng thể xác của chúng ta. Phần năng-lượng chính-yếu là năng-lượng chuyển-hóa lấy từ thực-phẩm chúng ta ăn và các chất lỏng chúng ta uống. Ngoại trừ sự ô-nhiễm có thể xảy ra cho nguồn tiếp-liệu năng-lượng chuyển-hóa, có những nguồn năng-lượng khác con người chúng ta cũng có thể bị ảnh-hưởng. Chúng ta luôn bị tắm trong một biển vô-hình của những năng-lượng có tần-số khác nhau. Bên cạnh các nguy-hại về sức khỏe từ các năng-lực-trường do con người tạo ra, các khoa-học-gia cũng đã bắt đầu chú ý tới các hiệu-quả xấu của sự căng-thẳng thần-kinh do địa-từ-lực.

Khi sự vận-hành của các năng-lượng chính yếu của sự sống trong cơ-thể bị cản-trở, bệnh-tật là hậu-quả tất-yếu có thể xảy ra. Trong khi thực-phẩm đầy dinh-dưỡng, nước trong lành, và không-khí không bị ô-nhiễm có thể là những chất hấp-thụ quan-trọng để cưu mang sự sống, một sự vận-hành mạnh và cân-bằng của các nguồn năng-lượng chính-yếu của sự sống qua các kinhmạch, chakras, thể ethericthể tâm-linh cũng quan-trọng không kém để bảo-toàn tối-hảo một sức khỏe và đời-sống tốt. Các tắc-nghẽn trong các kinhmạch chakras có thể tạo ra các sự mất cân-bằng của sự vận-hành năng-lượng cần-thiết tới các bộ-phận của cơ-thể, góp phần vào việc tạo ra bệnh tại các bộ-phận đó.

Y-khoa Vi-Ba nhìn bệnh-tật và đời-sống từ nhiều mức-độ ri-loạn chức-năng năng-lượng khác nhau có thể ảnh-hưởng tới con người đa-chiều-kích. Con đường đi tới đời-sống tốt bao gồm nhiều hơn là việc ẩm-thực đúng và vận-động. Nó liên-quan tới năng-lượng tổng-thể môi-sinh của chúng ta, gồm cả tính đa-cảm – năng-lượng môi-sinh chúng ta tạo ra qua dự-cảmthái-độ của chúng ta đối với mọi người và các sự-cố trong đời sống của chúng ta. Qua các giao-tiếp về sinh-hóa, thần-kinh,năng-tính khác nhau, dự-cảm và cảm-giác có thể ảnh-hưởng mạnh tới sức khỏe của chúng ta trong cả hai chiều kích tốt và xấu. Năng-lượng môi-sinh này cũng gồm cả năng-lượng tâm-linh của linh-hồn đã cưu-mang chúng ta qua những thăng trầm của cuộc sống

Tiến Sĩ Nguyễn Dương
Nhóm Tông-đồ Mục-vụ Sức-khỏe

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/09/tkn.gif

 Phần I: Tất cả chỉ là Năng-Lượng – Năng-Lượng Vi-Ba

Phần III – Ba nguyên-lý chính về việc xử-dụng TKN để trị-liệu

by Tháng Mười Hai 4, 2014 Comments are Disabled Tài liệu TKNăng, Thiên Khí Năng
Thiên Khí Năng và Năng Lượng Vi Ba * Phần I: Tất cả chỉ là Năng-Lượng – Năng-Lượng Vi-Ba

Thiên Khí Năng và Năng Lượng Vi Ba * Phần I: Tất cả chỉ là Năng-Lượng – Năng-Lượng Vi-Ba

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2014/12/nangluongnguyentu.jpg

THIÊN-KHÍ-NĂNGNĂNG-LƯỢNG VI-BA

 Phần ITất cả chỉ là Năng-Lượng – Năng-Lượng Vi-Ba

 Những trang này giải-thích nguồn gốc năng-lượng trong cơ-thể dùng điều-khiển các ý-nghĩ, cử-động, sự tiêu-hóa, sinh-sản và tăng-trưởng; nói tóm lại là các chức-năng của thể-xác và tinh-thần của một cá-nhân. Điều này có vẻ là một trách-vụ to lớn và khó-khăn, nhưng, các bạn sẽ thấy, những điều căn-bản thực-sự rất đơn-giản. Chúng ta được điều-khiển bởi nguyên-tử-năng !

  • Nguyên-Tử-Năng

Các nguyên-tử  gồm có một hạt nhân, bao vây bởi các điện-tử. Các điện-tử này đầy năng-tính, nghĩa là chúng được giữ tại chỗ trong khi xoay quanh hạt nhân bằng năng-lượng. Hơn nữa, khi càng ở xa hạt nhân ở trung-điểm, chúng càng mang nhiều năng-lượng. Các điện-tử có thể “nhảy” từ quỹ-đạo này sang một quỹ-đạo khác. Flanders và Swann giải-thích, chúng luôn nhảy từ trạng-thái năng-lượng cao tới trạng-thái năng-lượng thấp, ngoại trừ trường-hợp có sự giúp đỡ bên ngoài. Nghĩa là chúng nhảy từ quỹ-đạo ở xa trung-tâm tới một quỹ-đạo gần trung-tâm hơn. “Điện-tử nhảy” là nguyên-nhân tạo ra năng-lượng dùng bởi các sinh-vật.

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/09/tkn.gif

  • Các dạng năng-lượng

Năng-lượng hiện-hữu dưới nhiều dạng khác nhau trong trời đất, như cơ-năng làm các vật chuyển-động, quang-năng trong ánh sáng mặt trời, nguyên-tử-năng trong uranium, điện-năng trong sấm sét, nhiệt-năng trong lửa, hóa-năng trong dầu-hỏa. Sáu dạng năng-lượng – cơ-năng, hóa-năng, nhiệt-năng, điện-năng, quang-năng và nguyên-tử-năng – có thể hoán-chuyển theo các định-luật về nhiệt-động-học.

  • Năng-lượng sinh-học cần cho sự sống cơ-thể [1]

Các tế-bào luân-lưu đòi-hỏi phải có năng-lượng và hàng ngàn các phản-ứng hóa-học cần năng-lượng luôn xảy ra trong các tế-bào, trong từng giây đồng-hồ, mỗi ngày. Loại năng-lượng các tế-bảo cần tới là hóa-năng kết-hợp mà các điện-tử chung-dụng dùng để kết-hợp các nguyên-tử trong các phân-tử.

Cơ thể chúng ta chứa đựng hóa-năng để cải-biến thành điện-năng tạo ra các điện-kích thần-kinh, làm sinh ra nhiệt-năng để giữ nhiệt-độ cơ-thể ở 37°C (98.6°F) dù ở trong những ngày tháng lạnh lẽo, và tạo ra cơ-năng qua sự vận-hành của các cơ-bắp để chúng ta có thể di-chuyển.

Mặt trời là nguồn năng-lượng vĩ-đại. Nguồn năng-lượng này được thực-vật xử-dụng, qua tiến-trình quang-hợp để tạo ra carbohydrates, chất béo, hoặc proteins, là các dạng hóa-năng dự-trữ. Khi chúng ta ăn các sản-phẩm thực-vật và động-vật, carbohydrates, chất béo, và proteins sẽ trải qua một loạt các thay-đổi chuyển-hóa và dùng chúng để làm tăng-trưởng các cơ-bắp, điều-hòa các chức-năng của cơ-thể, hoặc tồn-trữ dưới dạng hóa-năng.

Sự hấp-thụ và xử-dụng năng-lượng tối-hảo rất quan-trọng đối với mỗi cá-nhân, đặc-biệt cho những người hoạt-động. Để có thể phát-huy đúng khả-năng, năng-lượng tồn-trữ trong cơ-thể phải được dùng một cách hữu-hiệu nhất có thể.

  • Năng-lượng trong cơ-thể được tồn-trữ như thế nào?

Năng-lượng trong cơ-thể sẵn-sàng để xử-dụng dưới dạng adenosine triphosphate (ATP). Đây là một phân-tử phức-tạp cấu-trúc bằng những kết-hợp năng-lượng cao, để khi được tách rời bằng tác-động enzyme có thể giải-tỏa năng-lượng nhanh cho một số các tiến-trình của cơ-thể, kể cả sự co rút cơ-bắp. ATP được xếp loại là một chất có năng-lượng cao và được tích chứa trong các mô ở những lượng nhỏ. Điều quan-trọng phải nhớ là ATP là nguồn năng-lượng có sẵn cho tất cả các chức-năng của cơ-thể, và các nguồn năng-lượng khác được dùng để cung-cấp thêm cho ATP, thay-đổi tùy theo nhu-cầu.

Một chất khác có năng-lượng phosphate cao là phosphocreatine (PCr), cũng được tìm thấy trong các mô ở những lượng nhỏ. Mặc-dầu nó không được dùng như một nguồn năng-lượng sẵn-sàng, nó có thể cung-cấp bổ-xung nhanh ATP.

ATP có thể được cấu-tạo từ carbohydrate, chất béo, hoặc protein sau khi những chất bổ-dưỡng này đã trải qua những chuyển-hóa sinh-hóa phức-tạp trong cơ-thể. PCr được làm ra từ ATP thặng-dư.

  • Các hệ-thống năng-lượng sinh-học

Cường-độ năng-lượng sản-xuất và tích-năng của năng-lượng là hai yêu-tố quyết-định việc phát-triển các hệ-thống năng-lượng sinh-học trong cơ-thể.  Cơ-thể tích-chứa năng-lượng dưới nhiều dạng khác nhau – trong ATP, PCr, glycogen của cơ-bắp. Để năng-lượng này có thể được dùng làm cho cơ-bắp co-rút và hoạt-động, nó phải trải qua một số phản-ứng sinh-hóa nào đó trong cơ-bắp. Những phản-ứng sinh-hóa này được dùng làm nền-tảng để phân-loại sự tiêu-thụ nặng-lượng của con người theo ba hệ-thống năng-lượng: hệ-thống ATP-PCr, hệ-thống lactic acid, và hệ-thống dưỡng-khí.

Hệ-thống ATP-PCr còn được gọi là hệ-thống phosphagen vì cả hai adenosine triphosphate (ATP) và phosphocreatine (PCr) đều có chứa phosphates. Chất năng-lượng cao này, nằm trong các cơ-bắp, nhanh chóng giải-tỏa năng-lượng khi một điện-kích đi tới cơ-bắp. PCr, cũng là một chất năng-lượng cao tìm thấy trong cơ-bắp, có thể tạo thành ATP nhanh khi ATP được dùng. Năng-lượng phát ra khi PCr tách rời để tạo thành ATP từ ADP và P. PCr cũng bị thiếu hụt và cần được bổ-xung khi dùng. Khả-năng kỵ-khí (anaerobic power) là danh-từ thường được dùng cho hệ-thống ATP-PCr.

Hệ-thống lactic acid không được dùng trực-tiếp như một nguồn năng-lượng để co-rút cơ-bắp, nhưng nó có thể giúp thay-thế ATP nhanh khi cần-thiết. Hơn nữa, lactic acid sinh ra như một sản-phẩm phụ có liên-hệ tới sự mệt-mỏi của cơ-thể.

Hệ thống thứ ba là hệ-thống dưỡng-khí. Nó cũng được gọi là hệ-thống thông-khí (aerobic system). Hệ-thống dưỡng-khí, tương-tự như hệ-thống lactic acid, không được dùng trực-tiếp như một nguồn năng-lượng để co-rút cơ-bắp, nhưng nó làm sinh-sản những lượng lớn ATP từ những nguồn năng-lượng khác trong cơ-thể. Qua một loạt các phản-ứng chuyển-hóa phức-tạp của carbohydrate, chất béo, hoặc protein kết-hợp với dưỡng-khí để tạo ra năng-lượng, carbon dioxide, và nước. Các phản-ứng này xảy ra bên trong bộ-phận năng-lượng của tế-bào, gọi là mitochondrion. Một loạt các sự-cố sản-xuất năng-lượng oxy-hóa chủ-yếu liên-quan tới tiến-trình thông-khí (aerobic processing), carbohydrates và các chất béo (và những lượng nhỏ protein) qua chu-kỳ Krebs và hệ-thống chuyển điện-tử. Tại các giai-đoạn khác nhau trong tiến-trình này, năng-lượng được giải-tỏa và ATP được cấu-tạo, mà phần lớn ATP được tạo nên trong tiến-trình chuyển điện-tử. Cuối cùng thì hydrogen và các điện-tử kết-hợp với oxygen để tạo ra nước.

Mặc-dầu mức-độ sản-xuất ATP thấp hơn, nhưng lợi-điểm lớn của hệ-thống dưỡng-khí so với hai hệ-thống năng-lượng kia là sự sản-xuất những lượng lớn năng-lượng ở dạng ATP. Hệ-thống dưỡng-khí được chủ-yếu dùng trong thể-thao để tăng-cường sự bền-bỉ, như khi chạy đường-trường.

Tóm lại, năng-lượng sinh-học trong cơ-thể con người giúp cho các tế-bào được sống và sinh-sôi nẩy-nở; làm cho các chức-năng vận-hành như đã được ấn-định; và cho cơ-thể chúng ta có nhiệt-độ (gọi là thân-nhiệt). Ngoài năng-lượng sinh-học, các tế-bào và chức-năng trong cơ-thế còn bị chi-phối bởi một lực-trường tạo nên bởi điện-tích của các lượng-tử  đã cấu-tạo nên chúng.

  • Cơ-thể có sự thông-minh riêng của nó [2]

Tây-Y gần đây đã bắt đầu tránh xa việc dùng thuốc và giải-phẫu, là việc thường làm của các bác-sĩ, để tiến về một ngành thường có tính-cách vô-định, hỗn-tạp được gọi tổng-quát là “Tâm-Thể Y-Khoa” (“mind-body medicine”). Sự chuyển-hướng hầu như là một điều bắt-buộc, vì nền y-khoa cũ chỉ dựa trên phần thể-lý đã bắt-dầu bị lung lay.

Thí dụ phương-pháp tâm-thần để chữa-trị ung-thư thường bị chế-nhạo trong khoảng thập-niên trước, nhưng ngày nay người ta đã áp-dụng nó vào việc trị-liệu ung-thư, ngay cả điều-kiểm bệnh tình bằng ý-chí. Dr. O. Carl Simonton, một chuyên-viên quang-tuyến  tại trường Đại-học Texas, đã gặp một bệnh-nhân đàn-ông 61 tuổi bị ung-thư cuống họng. Bệnh-tình người này rất trầm-trọng; bệnh-nhân nuốt rất khó-khăn và chỉ còn cân nặng 98 pounds. Trong niềm tuyệt-vọng, nhưng muốn thử dùng một biện-pháp tâm-lý, Dr. Simonton đã đề-nghị bệnh-nhân trợ-giúp liệu-sách quang-trị của ông ta bằng phương-pháp gợi hình. Bệnh-nhân được dạy cách gợi lại hình ảnh về ung-thư của họ thật rõ ràng. Sau đó, dùng một hình ảnh tâm-thần nào đó hiện ra trong trí, họ được nhắc gợi lại hình ảnh hệ miễn-nhiễm trong cơ-thể của họ đang có các bạch-huyết-cầu tấn công thành-công các tế-bào ung-thư và quét chúng ra khỏi cơ-thể, chỉ chừa lại các tế-bào khỏe mạnh ở lại. Dr. Simonton cho bệnh-nhân về nhà để họ tiếp-tục gợi lại hình ảnh như vậy nhiều lần trong ngày. Bệnh-nhân đồng-ý, và rồi khối u của bệnh-nhân nhỏ dần. Trong vài tuần sau, khối u thật sự nhỏ hẳn, và phản-ứng đáp-trả với quang-trị hầu như không bị các phản-ứng phụ. Sau hai tháng, khối u hoàn-toàn biến mất.

Chúng ta phải nhìn-nhận là cơ-thể con người có sự thông-minh riêng của nó. Khi một tế-bào máu di chuyển tới chỗ bị thương và bắt-đầu làm thành một cục bầm, nó không phải di chuyển một cách ngẫu-nhiên. Thực ra nó biết phải đi đâu, và phải làm gì khi tới đó, tương-tự như một nhân-viên cấp-cứu. Có sự “thông-minh” điều-khiển việc làm của nó.

Chúng ta đã biết cơ-thể là một hãng bào-chế thuốc lý-tưởng mà Thượng-Đế đã tạo nên. Nó sản- xuất chất tiết-niệu, thuốc giảm đau, thuốc an-thần, thuốc ngủ, trụ-sinh, và cả các thuốc chế-tạo bởi các hãng bào-chế thuốc, và chúng được làm ra tốt hơn. Liều-lượng luôn đúng và được cung-cấp đúng lúc. Các phản-ứng phụ có tối-thiểu và hầu như không có. Cách dùng thuốc đã có sẵn, là thành-phần của sự “thông-minh” nội-tại.

Nghĩ tới các sự-kiện trên, chúng ta đi tới ba kết-luận. Thứ nhất, sự “thông-minh nội-tại” ở mọi nơi trong cơ-thể. Thứ hai, trí thông-minh nội tại vượt xa bất cứ điều gì chúng ta có thể thay-thế từ bên ngoài. Thứ ba, sự thông-minh nầy quan-trọng hơn cả thế-lý của cơ-thể, vì, nếu không có nó, thể-lý sẽ mất định-hướng, không hình-dạng, và hỗn-loạn.

Sự thông-minh nội-tại của cơ-thể mạnh đến nỗi nếu nó lệch-lạc, y-sĩ sẽ phải đối-diện với những nghịch-lý thật-sự vô cùng to lớn.  Thí-dụ, mỗi tế-bào trong cơ-thể được chi-phối bởi DNA của nó, để có thể phân tách theo một nhịp-độ thành hai tế-bào, mỗi khi tế-bào mẹ phân-tách thành hai. Tiến-trình này không hoàn-toàn máy-móc. Một tế-bào phân-tách theo nhu-cầu riêng của nó cộng với các tín-hiệu từ các tế-bào chung quanh, từ não-bộ, từ các bộ-phận ở xa đang nói chuyện với nó qua các tín-hiệu hóa-học. Tế-bào phân-tách là một quyết-định được cân-nhắc cẩn-thận và kỹ-càng – ngoại-trừ trường hợp ung-thư.

  • Những kẻ đưa tin trong nội-thể

Các chuyên-gia thần-kinh hiện nay đưa ra giả-thuyết là não-bộ có một bộ-phận tu-bổ hóa-học phức-tạp mà trước đây hầu như không được biết tới. Vào những năm 1970s, một loạt phát-minh quan-trọng về một nhóm hóa-chất gọi là chất dẫn-truyền thần-kinh được tìm thấy.  Như tên gọi, các hóa-chất nầy truyền các điện-kích thần-kinh; chúng tác-động trong cơ-thể chúng ta như các “phần-tử thông-tin”, để các neurons của não-bộ có thể nói chuyện với các bộ-phận trong cơ-thể.

Các chất dẫn-truyền thần-kinh là những liên-lạc-viên từ não-bộ tới mọi bộ-phận trong cơ-thể để truyền-đạt cảm-giác, ước muốn, ký-ức, trực-giác, và ước mơ. Không một sự-cố nào hoàn-toàn thuộc về não-bộ. Cũng như không một điều nào hoàn-toàn về tinh-thần, vì chúng được trình-bày bằng các tín-hiệu hóa-học. Các chất dẫn-truyền thần-kinh ảnh-hưởng tới đời-sống của mọi tế-bào. Sự tìm thấy các chất dẫn-truyền thần-kinh làm cho sự giao-tiếp giữa tâm-trí và vật chất được luân-lưu nhẹ-nhàng hơn bao giờ hết. Chúng cũng lấp đi sự ngăn-cách hầu như chia rẽ giữa tâm-trí với thân xác.

  • Điện-từ-trường của cơ-thế và Năng-Lượng Vi-Ba

Tính-cách vật-lý của TKN bắt nguồn từ điện-năng của các lượng-tử tạo-thành các tế-bào trong cơ-thể. Điện-năng là tính-chất vật-lý của vật-chất để tạo ra lực khi ở cạnh một vật khác có điện-năng. Có hai loại điện-năng: dương và âm. Một chất có dương-điện sẽ bị đẩy ra khi ở cạnh một chất khác cũng có dương-điện, nhưng sẽ bị hút bởi một chất khác có âm-điện; những chất có âm-điện bị đẩy bởi các chất có âm-điện và bị hút bởi những chất có dương-điện. Một vật có âm-điện khi có thừa điện-tử, và ngược lại sẽ có dương-điện hoặc không có điện.

Điện-năng là một tính-chất bảo-tồn căn-bản của một số duy-lượng-tử, ấn-định sự tương-giao điện-từ của chúng. Các chất có điện-năng sẽ sinh ra điện-từ trường và bị ảnh-hưởng bởi các lực-trường này. Sự tương-giao giữa một vật di-chuyển có điện-năng với một điện-từ-trường là nguyên-nhân tạo ra điện-từ-lực, là một trong bốn lực căn-bản chi-phối hoạt-động của mọi sự-vật.

Các cuộc thí-nghiệm trong thế-kỷ 20 đã chứng-minh là điện-năng mang bởi các duy-lượng-từ có thể đo được, là một bội-số của một đơn-vị nhỏ được gọi là điện-năng sơ-đẳng, e, gần bằng 1.602×10−19 coulombs (ngoại-trừ duy-lượng-tử quarks, có điện-năng là bội-số của e/3). Protons có điện-năng e, và electron có điện-năng −e. Ngành học về các lượng-tử có điện-năng, và sự tương-giao giữa chúng, môi-giới bởi các quang-tử, được gọi là điện-động-lực lượng-tử.

Tóm lại, cơ-thể con người vận-hành như một điện-từ-trường. Năng-lượng vi-ba (truyền đi như các làn sóng nhỏ) của lực-trường này chính là TKN mà Thiên-Chúa đã ban tặng cho con người tự bẩm-sinh. Đây là sinh-lực chi-phối các hoạt-động của các tế-bào và chức-năng trong cơ-thể. Chúng ta có thể dùng TKN để chữa lành: tái-tạo sự cân-bằng đúng của các chức-năng, bằng cách tác-động trên lực-trường này của bệnh-nhân.

Bên ngoài lực-trường này, chúng ta còn có nhiều lực-trường khác tạo ra bởi các lượng-tử giao-động trong vũ-trụ, theo các tần-số khác nhau. Các lượng-tử này mang năng-lượng vì có trọng-khối do sự hiện-hữu của lực-trường Higgs mà các khoa-học-gia mới kiểm-chứng được qua việc phát-hiện lượng-tử Higgs (Higgs boson) mới đây.

Vì lực-trường của cơ-thể con người bị bao bọc bởi các lực-trường khác trong môi-sinh, và ở ngoài vũ-trụ, nên TKN trong cơ-thể mỗi người cùng bị chi-phối bởi các lực-trường này. Để tăng-trưởng TKN trong cơ-thể, chúng ta phải cố-gắng tập-luyện để thâu-thập thêm năng-lượng từ các lực-trường trong môi-sinh và ở ngoài vũ-trụ.

  • Lượng-tử Higgs: Lượng-tử của Thượng-Đế!

Lượng-từ này giúp chúng ta giải-đáp được một thắc-mắc khoa-học nền-tảng trong vũ-trụ là làm thế nào mà sau “Tiếng Nổ Lớn” (Big Bang) (khi Thượng-Đế tạo-dựng vũ-trụ) mọi sự vật lại có thể được tạo-thành từ hư-vô, vào khoảng 13.7 tỷ năm trước.

Lượng-tử Higgs còn được gọi trong giới truyền-thông là lượng-tử của Thượng-Đế (God’s particle), dựa theo nhan-đề của một cuốn sách viết bởi Leon Lederman nói về đề-tài này (1993). Sự hiện-hữu của lượng-tử Higgs sẽ giúp cho việc chứng-minh sự hiện-hữu của lực-trường Higgs, và do đó cất-nghĩa được sự việc các vật-thể trong vũ-trụ có trọng-khối, và vì thế có năng-lượng. Lượng-tử Higgs chính là đầu mối Đấng Tạo-Hóa đã dùng để tạo-dựng mọi sự-vật trong vũ-trụ!

Quá-trình tìm-kiếm lượng-tử Higgs được tóm-tắt như sau:

Vào năm 1964, nhà vật-lý-học người Anh, Peter Higgs, đã viết một bài khảo-luận đáng ghi nhớ trong đó ông đưa ra một giả-thuyết để giải-thích tại sao các lượng-tử sơ-đẳng lại có trọng-khối. Ông tiên-đoán có sự hiện-hữu của một lực-trường 3 chiều chan-hòa trong vũ-trụ đã lôi kéo mọi sự-vật đi qua nó. Có những lượng-tử gặp khó-khăn nhiều hơn khi đi qua lực-trường này, do đó có trọng-khối nặng hơn. Nếu lực-trường này – được gọi là lực-trường Higgs – thực-sự hiện-hữu, thì – ông nói tiếp – phải có một lượng-tử liên-hệ với nó: đó là lượng-tử Higgs.

Không dễ gì kiểm-nhận được sự hiện-hữu của lượng-tử này. Phải trải qua hơn hai chục năm, với hàng ngàn chuyên-viên và hàng núi dữ-kiện thu-thập được từ hàng tỷ các va-chạm protons, và với sự xử-dụng lò phá-vỡ nguyên-tử (atom smasher) lớn nhất thế-giới – Hadron Collider vĩ-đại tại Trung-Tâm Thí-Nghiệm CERN, tổn-phí khoảng 10 tỷ Mỹ-kim để xây cất và vận-hành trong một đường hầm dài 17-dặm (27-cây số) bên dưới biên-giới hai nước Thụy-Sĩ và Pháp – để sản-xuất một năng-lượng phóng-thích cực cao trong một thời-gian cực ngắn, tương-tự như một phần tỷ hoặc 2 tỷ của một giây đồng-hồ sau Big Bang, đủ cao để sinh ra một lượng-tử Higgs. Lượng-tử này có trọng-khối bằng khoảng 125 lần trọng-khối của một proton.

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2014/12/Peter-Higgs.jpg

  • Các Tụ-Điểm Khí-Năng (Chakras) và Sức Khoẻ Con Người

Chúng ta cũng có những tụ-điểm khí-năng trong cơ-thể, gọi là chakras (danh-từ Hindu gọi là luân-xa) vận-chuyển như những máy phát sóng dọc theo kinh-mạch chánh (cột sống). Có bảy (7) tụ-điểm khí-năng chánh đếm từ cuối cột sống lên tới đỉnh đầu. Mỗi tụ-điểm khí-năng tạo ra các “con lốc” điện-từ-lực với mức-độ giao-động hoặc tần-số khác nhau, làm thành những lực-trường bao-bọc cơ-thể. Lực-trường có giao-động thấp nhất (sóng dài nhất và tần-số thấp nhất) phát ra từ các chakras ở thấp (như chakra 1 – huyệt hội-âm); giao-động cao nhất ở trên đỉnh đầu (chakra7 – huyệt bách-hội). Xin tham-khảo sách Thuật Dưỡng-Sinh: Tự Chữa Bệnh Bằng Thiên-Khí-Năng của Đức Ông HMT [3] để biết rõ vị-trí, chức-năng và sự xử-dụng các chakras trong việc trị-liệu.

Thân-xác con người có các hệ-thống luân-lưu là máu, khí-năng và hạch-dịch. Qua các kinh-mạch chạy theo chân tay và thân mình, ở phía trước và phía sau, và nhờ các đường kinh phụ, khí-năng và sinh-lực luân-lưu qua mọi bộ-phận và các mô trong cơ-thể. Khi ba hệ-thống nầy hoạt-động quân-bình thì con người khỏe mạnh. Nhưng khi chúng bị bế-tắc, luân-lưu không điều-hòa, các bộ -phận trong cơ-thể không nhận được đầy-đủ khí-huyết , bị mất quân-bình, làm cơ-thể suy-nhược, sinh bệnh. Khi có bệnh, trước hết nó ảnh-hưởng tới lực-trường, sau đó tới sự vận-hành của các chakras có liên-hệ trực-tiếp tới các hệ-thống hạch nội-tiết, và gián-tiếp tới các bộ-phận của cơ-thể. Vì vậy, muốn có một cơ-thể mạnh-khỏe, chúng ta phải có một “lực-trường cơ-thể” sung-mãn. Để chữa lành cơ-thể, chúng ta phải chữa lành lực-trường cơ-thể trước – giải-tỏa các bế-tắc và sự mất cân-bằng năng-lượng – để ngăn-chặn sự suy-nhược của cơ-thể và giúp nó hồi-phục. Mọi sự chữa lành đều dựa trên năng-lượng và ý-thức tâm-linh.

Tóm lại, TKN là điện-từ-lực của lực-trường tạo nên trong cơ-thể con người bởi sự giao-động của các lượng-tử trong các tế-bào và các năng-lượng hấp-thụ được từ môi-sinh và trong vũ-trụ, do sự tập-luyện (hít thở và ý-chí tập-trung) của con người. Năng-lượng này được truyền đi theo các vi-ba (sóng nhỏ) có tần-số cao hãy thấp tùy theo trạng-thái cảm-nhận và tâm-linh của mỗi người lúc đó. Việc xử-dụng năng-lượng này để tự chữa bệnh, hoặc trị-liệu cho một bệnh nhân khác, đều dựa trên các nguyên-lý được trình bày dưới đây ♦

Tiến Sĩ Nguyễn Dương
Nhóm Tông-đồ Mục-vụ Sức-khỏe

Xem tiếp: Phần II – Thiên-Khí-Năng và Y-Khoa Vi-Ba

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/09/tkn.gif

 

by Tháng Mười Hai 2, 2014 1 comment Tài liệu TKNăng, Thiên Khí Năng
MƯỜI VÙNG KHÍ NĂNG và THẦN KINH HỆ trên thân thể con người

MƯỜI VÙNG KHÍ NĂNG và THẦN KINH HỆ trên thân thể con người

      https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/08/10-vung-khi-nang-va-than-kinh1.jpg

Ai trong chúng ta cũng biết cấu trúc tổng quát của thân thể con người, nhưng rất ít người biết rằng toàn hệ thống thần kinh có các điểm tới hay khởi hành ở 10 đầu ngón chân, mười đầu ngón tay và trên lòng hai bàn chân, lòng hai bàn tay và trên hai tai, cũng như trên mặt. Các đầu dây thần kinh này chạy qua các cơ phận trong toàn thân thể con người. Khi tác động (bấm, ấn, thoa, bóp) trên các đầu ngón chân, đầu ngón tay, từng ngón chân tay và các vùng khác nhau trên lòng hai bàn chân và lòng hai bàn tay cũng như hai tai và trên mặt, là chúng ta trực tiếp tác động trên các đầu dây thần kinh nối liền với các cơ phận tương ứng. Nếu không bị đau, các cơ phận này sẽ được gia tăng sinh lực; nếu bị suy yếu, chúng sẽ được bồi dưỡng; nếu có bệnh, chúng sẽ giảm đau và từ từ khỏi bệnh.

       Bác sĩ Hiroshi Motoyama, người Nhật, không chỉ nghiên cứu các vùng phản xạ và các đường kinh tuyến để đẩy huyệt, mà còn chế ra máy điện từ xác định các tắc nghẽn năng lượng dựa trên sự kích thích điện từ trên các đường kinh, qua đó bác sĩ chẩn bệnh trước khi nó lộ hiện ra ngoài. Các nghiên cứu này của bác sĩ Motoyama xác nhận thực tại mỗi khi một điểm nào đó trên đường kinh bị tắc nghẽn, dòng năng lượng của nó bị chặn lại hay hạn chế kéo theo tình trạng bất an, ảnh hưởng trên một vùng hay trên cơ phận liên hệ. Nhấn, đẩy, thoa, bóp giúp thông thương kinh mạch, khí huyết luân lưu đều hòa, cung cấp hồng huyết cầu và dưỡng khí cần thiết cho mọi tế bào, khiến cho cơ phận ấy khỏe mạnh trở lại và hết đau yếu.

1. Để có thể áp dụng đúng đắn phương pháp phản xạ học, điều quan trọng là phải thuộc vị trí của các cơ phận trong thân thể và các vùng phản xạ tương ứng. Càng năng nhìn và nghiên cứu các đồ hình bao nhiêu, bạn càng nhận diện ra mười vùng năng lượng hàng dọc và các cơ phận chúng đi qua bấy nhiêu.

     Mười vùng năng lượng chạy dọc theo thân thể mỗi bên 5 đường cân đối với nhau từ năm ngón chân và từ năm ngón tay: 5.4.3.2.1 – 1.2.3.4.5.

     Tâm của thân thể là vùng 1: đàng trước chạy tử đỉnh đầu xuống giữa trán, dọc sống mũi, xuống môi, miệng, cằm, giữa cổ, qua hạch Amiđan, xuống giữa ngực, bụng, rốn, hạch Đan Điền, bộ sinh dục và hậu môn. Đàng sau chạy từ đỉnh đầu xuống óc con, gáy, và chạy dọc xương sống cho tới xương cùng. Hai đường kinh chỉ huy là Đốc mạch (= kinh dương chạy đàng sau lưng) và Nhâm mạch (= kinh âm chạy phía trước bụng).

     1) Vùng 1 bắt đầu từ ngón chân cái và ngón tay cái của cả hai bên, chạy dọc lên mặt trong của chân và cánh tay lên đến đỉnh đầu (huyệt Bách Hội, tức Chakra số 7).

     Nó chạy qua các cơ phận như hốc mũi, vòm miệng, duyến tùng, duyến yên, tim (bên trái), dạ dầy, cột sống, dạ con, bọng đái, bộ phận sinh dục và hậu môn.

     2) Vùng 2 bắt đầu từ ngón chân và ngón tay thứ hai (tay trỏ) của cả hai bên, chạy dọc thân thể và cánh tay cho đến đỉnh đầu.

     Nó chạy qua các cơ phận như hai mắt, xoang, duyến ức, duyến cận giáp, duyến giáp, duyến tụy, phổi, phế quản, hạch hạnh (Amiđan), tim và dạ dầy. Như thế, nhiều cơ phận thuộc cả vùng 1 và vùng 2.

     3) Vùng 3 bằt đầu từ ngón chân giữa và ngón tay giữa của cả hai bên, chạy dọc thân thể và dọc cánh tay lên đến đỉnh đầu.

Nó chạy qua mắt, duyến giáp, duyến ức, duyến tụy, phổi, thận ở cả hai bên, dạ dầy và ruột thừa, gan và túi mật (bên phải).

     4) Vùng 4 bắt đầu từ ngón chân thứ tư và ngón tay thứ tư (ngón tay đeo nhẫn) của cả hai bên, chạy dọc thân thể và cánh tay lên đến đầu.

Nó chạy qua ruột thừa, gan và van hồi tịt (bên phải), lá lách (bên trái) vai, tai và phổi (cả hai bên).

     5) Vùng 5 bắt đầu từ ngón chân út và ngón tay út của cả hai bên.

Nó chạy qua gan (bên phải) và hai bên tai, gáy.

2. Như thế hai bàn chân và hai bàn tay của chúng ta được chia thành 5 phần tương ứng với 5 phần trên thân thể với các cơ phận liên hệ.

     1) Khi bấm, đẩy, nắn, thoa, bóp hay chuyền thiên khí năng cho phần I gồm các ngón chân và các ngón tay là chúng ta tác động trên não bộ, các cơ phận và các phần khác của đầu như: óc, tai, mắt, mũi, họng, cổ, gáy, duyến tùng, duyến yên, duyến giáp trạng, phần trên cùng của cột sống, và chữa các tình trạng mất quân bình, yếu nhược hay bệnh hoạn của chúng.

     2) Khi bấm, nắn, đẩy, thoa, bóp hay chuyền thiên khí năng trên phần II, kế tiếp các ngón chân, các ngón tay là chúng ta tác động trên vùng ngực và các cơ phận của nó như: phổi, tim, ngực, duyến ức, duyến giáp, duyến cận giáp, duyến tụy, vai, cánh tay, phần thứ hai của cột sống.

     3) Khi bấm, nắn, đẩy, thoa, bóp hay chuyền thiên khí năng trên phần III, chúng ta tác động trên các cơ phận như: gan, mật, dạ dầy, lá lách, tuyến thượng thận, thận, ruột gìa (đại tràng) khúc đi lên, khúc ngang và khúc đi dọc xuống, ruột non (tiểu tràng), hai bên hông và phần thứ ba của cột sống.

     4) Khi bấm, nắn, đẩy, thoa, bóp hay chuyền Thiên Khí Năng trên phần IV, chúng ta tác động trên bộ phận sinh dục, bọng đái, ruột cùng (trực tràng), và phần cuối cùng của cột sống.

     5) Khi bấm, nắn, đẩy, thoa, bóp hay chuyền Thiên Khí Năng trên phần V, chúng ta tác động trên các cơ phận thuộc vùng này.

     Ngoài việc thoa, bóp 4 phần trên đây của cơ thể con người, chúng ta có thể thường xuyên làm các động tác chữa bênh rất đơn sơ và hữu ích sau đây:

     1) Dùng móng tay cái bấm phần trước móng các đầu ngón tay và đầu ngón chân, để kích thích các đường kinh khởi đầu hay kết thúc nơi các đầu ngón tay và đầu ngón chân.

     2) Nắn và xoay hai bên đầu các ngón tay và đầu các ngón chân để kích thích các kinh mạch chạy qua các cơ phận trong người.

     3) Xoay tròn quanh các ngón tay và các ngón chân, để kích thích các kinh mạch và tác đông trên các cơ phận trong thân thể.

     4) Thoa cả hai bàn tay và hai bàn chân thường xuyên khi có giờ, để tác động trên các dây thần kinh nối liền với các cơ phận toàn thân thể.

     5) Thoa hai tai, bên trong cũng như bên ngoài, từ trên xuống dưới, để tác động trên các dây thần kinh và các huyệt nối liền với các cơ phận và cấu trúc thân thể, theo các nguyên tắc của thuật nhĩ châm.

     6) “Rửa mặt khô”, tức thoa mặt bằng hai bàn tay, trên trán, hai bên thái dương, hai bên má gồm cả tai, hai bàn tay úp lên mặt đưa lên đưa xuống xuống từ trán trên mắt mũi miệng cằm, để tác động trên các đầu dây thần kinh và các huyệt nối liền với các cơ phận trong người, theo các nguyên tắc của thuật diện chẩn.

   Nắn bàn chân để chẩn bệnh

     Đây là lý do giải thích tại sao khi khám bệnh bằng cách nắn bàn chân, chúng ta có thể nhận ra ngay cơ phận nào trong người bị bệnh hay suy yếu hoặc đang có vấn đề. Và cách trị liệu là thoa bóp vùng đó cho tới khi nào hết đau là bớt hay khỏi bệnh.

     Do đó, cần học nhớ các phần của mu và lòng bàn tay và bàn chân nối liền với các cơ phận khác nhau trong cơ thể để có thể chữa trị hữu hiệu. Khi có thiên khí năng, việc chữa bệnh bằng cách bấm huyệt và thoa bóp phản xạ học rất công hiệu, vì khí năng được chuyền vào các đường kinh, các huyệt và các vùng trong cơ thể khiến cho chúng mau hồi phục hơn.

LM Hoàng Minh Thắng

by Tháng Tám 31, 2012 3 comments Tài liệu TKNăng
Chữa bệnh TRĨ hay MẠCH LƯƠN công hiệu nhanh chóng

Chữa bệnh TRĨ hay MẠCH LƯƠN công hiệu nhanh chóng

 https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/08/Ch%E1%BB%AFa-b%E1%BB%87nh-TR%C4%A8-hay-M%E1%BA%A0CH-L%C6%AF%C6%A0N-c%C3%B4ng-hi%E1%BB%87u.jpg

           Trĩ hay mạch lươn là một trong các bệnh khá thông thường nhiều người bị Có nhiều lý do giải thích nguồn gốc của bệnh này:

       – vì uống ít nước nên bộ máy tiêu hóa hoạt động khó khăn,

       – phân khô khiến mỗi khi đi đại tiện phải rặn nhiều,

       – vì ăn qúa nhiều gia vị nóng,

       – vì giấy vệ sinh là giấy báo,

       – hoặc vì nhiều lý do khác.

       Khi bị nặng nó lòi ra, ngồi gây ra đau đớn, chảy máu và rất khó chịu. Cho tới nay phương cách chữa trị duy nhất là giải phẫu cắt bỏ, nhưng vẫn có nguy cơ bị lại sau một thời gian.

1. Thật ra có một cách trị bệnh trĩ rất dễ và đơn sơ, nhưng ít người biết.

       Đó là:

       – dùng ngón tay,

       – hay chiếc đũa đầu cột ít bông gòn (để cho bớt đau khi nhấn),

       – nhấn thật mạnh trên huyệt Hội Âm, là huyệt nằm ở chính giữa khoảng cách giữa hậu môn và bộ sinh dục,

       – mỗi lần nhấn giữ lâu chừng 2-3 phút,

       – sau đó nhấn tiếp chừng 5-10 lần,

       – trĩ sẽ rút vào trong ngay lập tức.

2. Cũng có thể chữa bằng thiên khí năng.

       – một tay để trên chaka 7 (Hội Dương)

       – tay kia dưới chakra 1 (Hội Âm)

       – mỗi lẫn để chừng 10-15 phút.

       Đây là hai cách chữa bệnh trĩ rất công hiệu và mau chóng, chỉ trong mươi phút. Thiên khí năng chữa trĩ ngoại, nhưng đặc biệt rất công hiệu đối với trĩ nội xuất huyết.

3/ Tỏi

        Dr. John Douillard hướng dẫn như sau: Lấy một tép tỏi, cắt hai đầu cho tép tỏi được trơn tru, bóc vỏ, thoa một lớp dầu dừa hay dầu olive bên ngoài tép tỏi. Nhét vào bên trong hậu môn để suốt đêm, không gây xót. Làm như vậy trong 7 đêm. Trong tình trạng nặng thì làm thêm một số lần nữa cho đến khi dứt hẳn. Đây là cách đơn giản nhưng hữu hiệu.

        Tỏi giúp giảm viêm và sát trùng, hỗ trợ cơ thể trong việc tự chữa lành.

       Trường hợp viêm trĩ nghiêm trọng, uống thêm trà neem đậm và amalaki.

4/ Ớt cayenne

       Ngoài ra cũng có thể uống trà ớt Cayenne hay bất cứ loại rượu ớt nào, như chỉ dẫn trong bài đánh cảm. Mổi lần từ 1/4 và tăng dần lên 1 muỗng cà phê bột ớt hay rượu ớt. Ngày 3 tách  pha với nước nóng.♦

5/ Lá neem:

       Nấu nước lá neem đậm đổ ra chậu để xông hậu môn lúc nước nóng, đến khi vừa ấm thì rửa hậu môn và ngâm 10 phút.  Mỗi ngày 1-2 lần. Uống thêm trà lá neem.

      Ở Sydney nước Úc có người trong khóa Thiên Khí Năng dùng cách này đã khỏi bệnh trĩ trong vòng một tuần.

      Có thể giã nát lá neem tươi hay dùng bột lá neem hòa với nước hay dùng dầu neem đắp vào chỗ bị trĩ rồi băng lại rất tốt.

 6/ Lá diếp cá (giấp cá): Cùng cách như dùng lá neem:

       Nấu nước lá diếp cá đổ ra chậu để xông hậu môn lúc nước nóng, đến khi vừa ấm thì rửa hậu môn và ngâm 10 phút. Mỗi ngày 1-2 lần. Uống thêm nước ép lá diếp cá tươi (giã nhuyễn 50-100 gam lá diếp cá rồi vắt lấy nước).

       Lá diếp cá giã nguyễn đắp vào nơi bị trĩ rồi băng lại cũng giúp mau khỏi.

       LM Hoàng Nguyễn chia sẻ: Lá Diếp cá xay ra bỏ tủ lạnh uống thay nước trong vòng 1 tuần sẽ thấy hiệu quả vô cùng kỳ diệu.

 LM Hoàng Minh Thắng

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/12/DISCLAIMER.jpg

 

by Tháng Tám 31, 2012 4 comments Tài liệu TKNăng
CẢM LẠNH rất nguy hiểm, không nên khinh thường

CẢM LẠNH rất nguy hiểm, không nên khinh thường

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/08/C%E1%BA%A3m-l%E1%BA%A1nh-r%E1%BA%A5t-nguy-hi%E1%BB%83m.jpg

I. Đánh cảm

       Cảm lạnh là một một bệnh rất thông thường. Nhưng ngoại trừ một số dấu chỉ quen thuộc như sổ mũi, tịt mũi, nhức đầu, người gai gai sốt, khó chịu ai cũng biết, cảm lạnh thường khiến cho nhiều cơ phận khác bị suy yếu và gây ra một số bệnh, mà các bác sĩ tây y và cả đông y cũng không khám ra, không biết lý do tại sao, vì không có các vết nội thương ngoại thương, cũng không có vi khuẩn và không có cơ phận nào bị hư hỏng. Tuy không biết là bệnh gì nhưng các bác sĩ vẫn cho thuốc, thường là thuốc giảm đau, càng uống càng không khỏi, lâu ngày bị mất trí nhớ, loét bao tử, hư thận và khiến cho hệ thống thần kinh bị tê liệt. Cảm lạnh thường gây đau nhức tứ chi mình mẩy đến tê bại không cử động được, nên có bác sĩ cho là hệ thần kinh bị hư và đề nghị giải phẫu…

II. Lý do

         1) Trời mưa, trời gió hay trời lạnh mà mặc không đủ ấm, đầu không đội mũ, chân không đi giầy, không mang tất ấm, cổ không quấn khăn vv… vì thế các cơ phận thuộc bộ máy hô hấp (mũi, miệng, cổ họng, phổi… ) và tuần hoàn (tim, dạ dầy, ruột, gan, thận, lá lách…) bị lạnh. Khí âm xâm nhập nhiều qúa làm mất thế quân bình trong cơ thể, gây bế tắc kinh mạch, và suy yếu các cơ phận.

         2) Ngồi trúng chỗ có luồng gió (ở tư gia, trong nhà thờ, nhà hội có mở cửa trước cửa sau, hay cửa ngang hông, trong xe mở cửa kính hay máy lạnh qúa vv… ) có thể đưa đến chỗ bị cảm.

         3) Đặc biệt tại những vùng sáng sớm và ban chiều trời lạnh, nhưng ban trưa trời nóng (điển hình như California, Texas, Florida… ), có rất nhiều người bị cảm lạnh, vì không để ý, mặc không đủ ấm khi đi làm ban sáng và về nhà lúc chiều tối. Cứ thế, khí âm nhập vào người mỗi ngày một chút, và từ từ khiến cho cơ thể bị suy nhược và sinh ra nhiều triệu chứng mà không biết là bệnh gì.

III. Triệu chứng

    1. Một số triệu chứng thông thường dễ nhận ra:

         1/ Sổ mũi, tịt mũi.

         2/ Nhức đầu, nặng đầu.

         3/ Ho.

         4/ Cảm thấy người vừa nóng vừa lạnh: hơi sốt hay sốt nặng (khi có vi khuẩn gọi là bệnh cúm).

         5/ Bần thần, mỏi mệt trong người.

    2. Các triệu chứng khó nhận ra:

        Nhưng chính vì khí âm xâm nhập thân thể, khiến bế tắc kinh mạch, khí huyết và làm suy yếu các cơ phận hô hấp và tuần hoàn, nên cảm lạnh làm nảy sinh ra nhiều triệu chứng, mà cả các bác sĩ cũng không biết và không ngờ tới.

        1/ Trằn trọc, khó ngủ ban đêm.

        2/ Ngủ không thẳng giấc, đi tiểu lắp nhắp ban đêm, hay bị chuột rút.

        3/ Đổ mồ hôi ban đêm.

        4/ Đầy bụng, khó tiêu.

        5/ Nhất là đau và nhức mỏi trong người: đặc biệt là hai cánh tay, cổ, bả vai, sống lưng, đầu gối, hai chân và hai bắp chân.

        6/ Nhiều khi có cảm tưởng như bị đau nhức thần kinh hay từ trong xương, đến độ bị bại xuội, cổ không quay được, không giơ hay co tay chân lên được, không cúi xuống được hay không thể mặc và cài cúc áo quần vv….

        – Đi khám bác sĩ, chụp phim thì không có cơ phận nào bị hư hại hay tật bệnh gì. Các bác sĩ chỉ biết cho thuốc giảm đau, bệnh nhân có cảm tưởng giảm đau nhức, nhưng càng uống càng tệ hại thêm, vì người ngày càng bần thần, mỏi mệt và đau nhức hơn. Thuốc giảm đau, thuốc ngủ sinh ra bệnh mất trí nhớ, đau bao tử và đau thận…

         7/ Tức ngực, nhói ngực, khó thở, hụt hơi.

         8/ Nghẹt tim, tim hồi hộp, ngộp thở, hay có cảm tưởng bị bệnh tim.

         9/ Khó tiêu, táo bón, nặng bụng, ợ chua.

         10/ Đau bụng lâm râm.

         11/ Tiêu chảy.

         12/ Đau tức bên hông phải trên vùng gan.

         13/ Đau tức bên hông trái trên vùng lá lách.

         14/ Teo tĩnh động mạch trên đầu (dẫn tới chỗ đau đầu và bị tai biến mạch máu não vì lượng hồng huyết cầu và dưỡng khí không lưu thông đủ để nuôi óc).

         15/ Da mặt xanh xao, tái mét hay thâm, và người lúc nào cũng cảm thấy bần thần, mệt mỏi như mất hết sức lực, chán nản, buồn sầu, chỉ muốn đi nằm, không muốn làm gì, và không làm được gì, vì người lúc nào cũng mệt mỏi.

         Đi khám bác sĩ, thử máu, thử phân, thử nước tiểu, chiếu điện, thì không tìm ra bệnh gì, và ai cũng bảo là bệnh giả đò.

        16/ Trẻ em bị cảm lạnh thì khó ngủ, hay ói sữa, biếng ăn, táo bón (hai ba ngày mới đi một lần, mà phải dùng thuốc, phân hôi), tiêu chảy, hay khóc, quấy, da không trắng và hồng hào, nhưng tái mét, khi khóc thì tím ngắt mặt mũi chân tay, và không dỗ được.

     – Tất cả các triệu chứng trên đây đều có thể do cảm lạnh mà ra, đặc biệt các trường hợp đau nhức số 5, trường hợp số 15 và số 16 là dấu chứng đã bị cảm lạnh từ rất lâu, chứ không phải các cơ phận bị hư hại.

     – Khi bị cảm lạnh, phần nào trong cơ thể yếu thì phần đó thường dễ bị ảnh hưởng.

     – Có nhiều người bị cảm lạnh hàng chục năm mà không biết, đi khám hết mọi bác sĩ tại mọi nhà thương nổi tiếng và uống biết bao nhiêu thứ thuốc, mà vẫn không khỏi bệnh. Và các bác sĩ vẫn không biết chính xác là bệnh gì, kể cả các bác sĩ dông y và châm cứu. Đây là các trường hợp bị đau nhức (số 5) và người mất sắc, bần thần, kiệt sức (số 15) và trẻ em (số 16).

IV. Cách chữa

     Có nhiều cách chữa.

     1) Bình thường có thể cạo gió.

         1/ Cách cạo:

     – Dùng đồng bạc hay tốt nhất là cái muỗng lớn (nếu bằng bạc nguyên chất càng tốt) cạo gió bằng dầu nóng (hay bất cứ loại nào cũng được)

     -Bất đắc dĩ có thể dùng cả các loại dầu nấu ăn,      đặc biệt là long não pha với dầu ô liu, nhưng tốt nhất là dầu dừa.

     – Tỳ mạnh đồng bạc hay cái muỗng bằng kim loại sát xuống da.

      – Cạo chậm rãi và kéo đường càng dài càng tốt.

      – Như thế sẽ ít đau và không trầy da.

         2/ Chỗ cạo: khắp nơi trên người

     – Cạo: cổ, gáy, trán, trên đầu, hai thái dương, bả vai, bên trong bên ngoài hai cánh tay, mu bàn tay, ngón tay, lưng, ngực, bụng, bụng dưới, mông, bên trong bên ngoài đùi, chân, bắp vế và mu bàn chân, ngón chân.

         3/ Cạo gió rất khoa học nhưng ông bà cha mẹ chúng ta không giải thích nên mình không hiểu.    Thật ra:

     – cạo gió là đả thông kinh mạch để cho khí huyết lưu thông đều đặn trở lại,

     – tái lập thế quân bình cho cơ thể,

     – dầu nóng tăng khí dương,

     – đồng bạc hay cái muỗng, tức chất kim khí, rút khí âm trong người ra.

         Cạo gió xong là tự nhiên hết các triệu chứng kể trên và khỏi bệnh, thường là ngay tức khắc.

     – Chỉ khi bị cảm (cảm nắng cũng như cảm gió và cảm lạnh) cạo da mới đỏ hay có hột và bầm tím, nếu bị cảm nặng từ lâu. Càng bị cảm lâu càng bầm. Nhưng chỉ vài hôm sau là các vết đỏ và bầm sẽ biến đi.

        Vì thế nói cạo gió vỡ mạch máu da là không đúng. Ngày nay nhiều bác sĩ Mỹ cũng bắt đầu tin, vì người ta đã cạo ngay trước mặt cho bác sĩ thấy.

     – Tuy nhiên, vì sống tại Tây Âu có nhiều người không quen hay chưa cạo gió bao giờ, nên sợ đau hay sợ bị dị nghị, mà quên đi hay khinh thường cách chữa bệnh rất hữu hiệu này của ông bà cha mẹ.

         4/ Cách pha long não với dầu ô liu:

     – 100 gr bột long não nguyên chất đã tán sẵn, mua ở tiệm thuốc bắc (không phải long não bỏ quần áo hay giết gián),

     – pha với 1 lít dầu ô liu (dầu trộn sà lát loại nào cũng đựợc),

     – bình thường các tiệm thuốc bắc bán bịch1 poundlong não (10 US$), thì pha với 1 galon dầu ôliu, rồi chia nhau.

     – Dầu ô liu pha với long não còn có thể dùng để thoa bóp, chữa trặc hay sưng chân tay và thấp khớp rất công hiệu. Đau cổ, ho, thoa dầu ô liu pha với long não một lúc sẽ khỏi.

    2) Xông với nước lá

– Nấu một nồi nước lớn với lá sả, lá cây dầu huynh diệp, lá chanh, lá cam, lá quít, lá bưởi hay ngải cứu vv…

– Trước khi trùm chăn xông trong phòng kín gió, thì bỏ thêm 10-20 gr bột long não nguyên chất, nếu có (thường tiệm thuốc bắc có bán bịch lá xông có thêm gói bột long não nhỏ).

– Xông xong, lau mồ hôi khô, và mặc quần áo ấm ngay rồi uống vài viên thuốc cảm hay nước trà gừng nóng, đắp chăn nằm nghỉ hay ngủ được một giấc, sẽ thấy người khỏe ngay.

Vì khi xông chảy mồ hôi nhiều nên cơ thể mất nhiều muối đạm, các lỗ chân lông hở, do đó cần phải cẩn thận, không được tắm, kiêng ra ngoài, để đừng bị lạnh trở lại.

    3) Đánh cảm bằng cám rang

        – Lấy cám bỏ vào chảo rang nóng lên.

        – Bỏ vào miếng vải túm lại.

        – Rồi vuốt từ trên đỉnh đầu vuống xuống.

        – Vuốt khắp nơi trong người: đầu tóc, mặt, ngực, bụng, cơ quan sinh dục, lưng, mông, đàng trước đàng sau tay chân, lòng bàn tay bàn chân và ngón tay ngón chân…

     Cảm nặng thì phải rang 2, 3 mẻ và vuốt vài lần sẽ đỡ ngay, vì mọi kinh mạch đều được đả thông và khí huyết di chuyển bình thường trở lại.

    4) Đánh cảm bằng gừng

         – 100 gr gừng giã dập,

         – túm vào một chiếc khăn hay vải mỏng,

         – nhúng vào một bát rượu mạnh (rượu đế, volka vv…),

         – vuốt từ đỉnh đầu xuống cả người phía trước: mặt mũi, ngực, bả vai, cánh tay bên trong bên ngoài, lòng và mu bàn tay, rồi các ngón tay, bụng, bắp vế xuống cho tới lòng và mu bàn chân và các ngón chân, phía sau: đầu, ót, gáy, lưng, mông xuống cho tới lòng bàn chân và các ngón chân.

    5) Đánh cảm bằng trứng gà và đồng bạc nguyên chất (pure silver coin)

         – Luộc 5-7 trứng gà chín lên (18 phút thì trứng chín), luôn để nước sôi.

         – Bóc vỏ, bổ đôi, bỏ lòng đỏ.

         – Nhét đồng bạc nguyên chất vào giữa.

         – Túm vào mảnh vải gấp đôi hay khăn hơi dầy một chút để khỏi bị rát da.

         – Rồi cứ thế vuốt từ trên đỉnh đầu xuống y như đánh cảm bằng cám và gừng.

         – Vuốt cho tới khi nào trứng hoàn toàn nguội mới thay trứng và thay đồng bạc khác (mỗi trứng vuốt khoảng 10 phút).

    Nếu bị cảm nắng, thì đồng bạc mầu đồng.

    Nếu bị cảm lạnh, thì đồng bạc mầu đen, càng cảm lạnh nặng càng đen.

    Nếu bị cảm gió nữa thì đồng bạc mầu đen nhánh có sắc xanh.

     Nếu vừa cảm nắng vừa cảm lạnh, thì đồng bạc có cả hai mầu.

         1/ Tùy trường hợp nặng nhẹ, có thể đánh từ 4 trứng trở lên. Bình thường mỗi lần đánh khoảng 4-5 trái là được. Để tránh bị lạnh trở có thể đánh đầu, ngực và lưng trước, rồi mặc áo, che khăn hay đắp chăn, sau đó mới đánh tới phần dưới của thân thể. Nếu muốn đánh một lần cho cả phía trước hay phía sau, thì lấy chăn đắp phần thân thể đã đánh rồi hay chưa đánh.

         2/ Đặc biệt là trường hợp 5 và nhất là 15, có khi phải đánh tới 40-50 hay hàng trăm cái trứng. Nghĩa là đánh làm nhiều lần, cho tới khi nào cảm thấy người dễ chịu, khỏe khoắn, da dẻ hồng hào trở lại thì thôi.

         3/ Trẻ em bị cảm (đặc biêt các em nhỏ) chỉ nên đánh cảm bằng trứng. Trường hợp các em được vài tháng, nếu sợ bỏng da, có thể đánh cảm bên ngoài áo cũng được. Nhưng nếu bọc trứng trong một khăn dầy vừa đủ sẽ không sao.

         4/ Cũng có thể để nguyên vỏ trứng, để có nhiều sức nóng hơn, nhưng phải dùng loại khăn rửa mặt hơi dầy, để khỏi bị vỏ trứng làm xước da.

         5/ Đánh cảm bằng trứng hơi tanh. Nhưng sau đó không được tắm. Chỉ nên dùng lotion hay chút dầu thơm pha chút nước nóng, nhúng khăn lau sơ người thôi.

         6/ Đặc biệt trường hợp số 15 và khi bị thương hàn, tức cảm lạnh ngấm tới xương, thì phải đánh cảm bằng trứng và đồng bạc (vì cạo gió, bấm huyệt thoa bóp chỉ bớt chứ không khỏi).

         7/ Để tẩy đồng bạc bị đen, thì lấy một mảnh giấy bạc bỏ trong một cái bát, bỏ đồng bạc vào rồi đổ nước đang sôi lên, hay mau hơn nữa là hơ trên lửa, đồng bạc sẽ trắng trở lại ngay.

         8/ Cách mua hay đặt đồng bạc đánh cảm:

    – Ai có thân nhân nhân ở Việt Nam có thể nhờ họ đặt cho mươi đồng bạc đánh cảm tại các tiệm bán vàng bạc (mỗi đồng khoảng 5-10 US$ làm hình bầu dục theo hình trái trứng là tiện nhất, vừa dùng để đánh cảm vừa dùng để cạo gió rất tốt)

    – Dễ nhất là vào Internet để mua và trả qua credit card ngay tại Mỹ. Họ sẽ gửi tới tận nhà. Mấy gia đình chung nhau, vì mỗi sét có 20 đồng 1 dollar lớn và dầy. Đồng 1 dollar lớn này có thể đánh được 2-3 trứng mới đen hết đồng bạc.

    Silver Rounds Medaillon ** 999 Pure Silver One Ounce

    htttp://www.goldmastersusa.com/silvercoins.asp

    6) Giác, lẩy (thường phức tạp hơn, vì cần có bộ đồ nghề và không công hiệu bằng các cách kể trên, vì chỉ hạn chế vào một số nơi có bắp thịt).

         – Giác bằng alcool hay rượu mạnh, nếu không khéo có thể bị bỏng da.

         – Giác bằng hơi tránh được nguy hiểm này, nhưng phải có bộ đồ nghề.

         – Nếu biết lẩy có thể nặn máu bầm ra, nhưng phải cẩn thận để không bị nhiễm trùng.

    7) Uống trà ớt Cayenne

       Một trong các cách trị cúm, cảm lạnh đơn sơ là uống trà bột ớt Cayenne với nước nóng. Ban đầu chưa quen cay nên pha ¼ muỗng cà phê, rồi tăng dần cho tới 1 muỗng bột ớt. Ngày uống 3 lần, hay hơn nếu cần.

       Khoa dược thảo ngày nay cho biết ớt chứa rất nhiều vitamine A,B,C,G,E, và rất giầu calcium, phosphorus và sắt. Do đó nó có khả năng nuôi dưỡng bồi bổ cơ thể và trị bệnh cao. Nó không chỉ chữa cảm cúm, đánh tan đờm, thông nghẹt thở, làm toát mồ hôi, mà còn giảm viêm họng và viêm amidan, hạ cholesterol và giảm Triglycerides cao.

       Một cách đặc biệt ớt là thuốc bổ hỗ trợ tim mạch, lọc máu, kích thích toàn bộ hệ thống cơ thể, gia tăng sức cho máu, dẫn máu tới tim và mọi cơ phận trong cơ thể, giữ cân bằng cho máu lưu chuyển. Rượu ớt có khả năng tác động mạnh và rất nhanh trên tim mạch, nên giúp tăng cường, củng cố, chữa trị các chứng bệnh về tim, và nhất là có khả năng cứu sống những người bị nhồi máu cơ tim, đứng tim, và chết đuối. Bơm hay đổ vào miệng, bên dưới lưỡi bệnh nhân 1-15 muỗng cà phê rượu ớt, lập tức các cục máu đông tan loãng, kinh mạch được đả thông, hết tắc nghẽn và tim đập trở lại ngay. Đây là điều đã xảy ra cho nhiều người bị đứng tim và bác sĩ tuyên bố là đã chết da chuyển sang mầu xanh, không còn cứu được nữa. Đây cũng là điều đã xảy ra cho người chết đuối da đã thâm tím. Khi được xịt hay đổ rượu ớt vào miệng, chỉ chốc lát sau họ tỉnh lại.  

       Ớt không chỉ làm tan các cục máu đông, chống xơ vữa động mạch hay xơ cứng động mạch, vì làm mềm mở rộng thành mạch, tăng sức mạnh cho tim, làm sạch bên trong thành mạch của hệ tuần hoàn, chống suy tim xung huyết, và loạn nhịp tim, mà còn chống xuất huyết và cầm máu rất nhanh và công hiệu, bằng cách giội rửa vết thương với rượu ớt và đắp bột ớt Cayenne lên vết thương.

       Ớt cũng gia tăng chức năng não bộ, gia tăng lưu thông máu đến vùng đầu và não bộ, chống lại chứng nhức nửa đầu (migraine headache) và nhức đầu chùm (cluster headache).

       Ngoài ra, ớt cũng là thuốc sát trùng, giúp loại các tác nhân gây bệnh, giúp giảm đau, giúp trị chứng khó tiêu hóa và ợ nóng.  

       Khi bị cảm cúm, uống vài ly trà ớt người sẽ nóng ấm lên, hết ớn lạnh, mệt mỏi, đau nhức và ngủ ngon.

       Trái với điều chúng ta tưởng nghĩ, ớt cũng có thể chữa bệnh loét bao tử và bệnh trĩ, vì chữa lành các vết thương và viêm, khiến cho các cơ bắp của hậu môn co giãn trở lại dễ dàng. Bác sĩ Christopher đã tự chữa bệnh trĩ bằng rượu ớt.

       Bạn có thể mua ớt bột Cayenne tại các quán bán thực phẩm và đồ gia vị. Nếu là ớt bột Cayenne, thì pha 60 gram ớt với 1 lít rượu trắng hay vodka 40-50 độ C , hoặc cồn 75-90%, trong 14 ngày, sau đó pha thêm  một lít nước cất nữa nếu là cồn. Nhưng bạn cũng có thể mua ớt về và tự pha chế lấy. Tốt nhất là trộn lẫn nhiều loại ớt khác nhau, mua loại càng cay càng tốt. Ớt Cayenne có 40.000 độ cay, nhưng có những loại cao hơn như Habanero, African bird, Jalpero lên đến 90.000 và loại cay nhất là 270.000. Độ cay càng cao, hiệu qủa tác động càng tốt.

       Xay ớt ra và ngâm với rượu trắng hay vodka 40-50 độ, ¼ ớt, ¾ rượu, thỉnh thoảng lắc đều lên và để trong chỗ tối. Sau hai 14 ngày lọc bã, để có thuốc sẵn trong nhà hay ruôn vào lọ nhỏ mang theo trong xe hoặc trong xách tay cho các trường hợp cần dùng, đặc biệt để cấp cứu những người bị nhồi máu cơ tim.

V.  Phòng bệnh hơn chữa bệnh

       Vì cảm lạnh có thể gây ra các hậu qủa nguy hại tới các cơ phận trong người như thế nên chúng ta phải cẩn thận.

         1/ Luôn mặc ấm áp khi đi làm hay đi lễ ban sáng và về nhà lúc chiếu tối.

         2/ Đầu đội mũ, trùm khăn.

         3/ Giữ hai vai, vùng thận và chân ấm (đi vớ, cả khi ở trong nhà).

         4/ Khi có các triệu chứng kể trên, cứ áp dụng mấy cách chữa bệnh trên đây của ông bà cha mẹ, trước khi đi khám bác sĩ.

       Trong các năm qua tôi đã từng chữa bệnh cho hằng trăm người và đoán bệnh ít khi sai. Thí dụ một người bị tiêu chảy suốt 3 năm đi khám bác sĩ tại nhiều nhà thương khác nhau và uống bao nhiêu thuốc nhưng không khỏi. Các bác sĩ không tìm ra lý do. Sau khi cạo gió bụng, lưng và ngực, bệnh tiêu chảy dứt ngay. Một người khác ăn lương tàn tật 2 năm vì không thể giơ hai tay lên được và đau nhức không thể lái xe được. Đi khám tại nhiều nhà thương nhưng các bác sĩ không biết bệnh gì, chỉ cho uống thuốc giảm đau và đoán là thần kinh bị hư nên đề nghị mổ. Sau khi cạo gió hai cánh tay và lưng xong là hết đau nhức và hai tay cử động bình thường ngay lập tức. Một người khác nữa bị đau đầu gối 3 tháng, đi khám các bác sĩ, chiếu điện nhiều lần cũng như uống nhiều thứ thuốc, mà không hết đau nhức. Bác sĩ nói thần kinh bị hư, phải mổ. Cạo gió mấy phút là hết đau nhức ngay.

       Thế mới biết rất nhiều trường hợp đau nhức là do cảm lạnh. Vì vậy trước khi đi bác sĩ hay vào nhà thương, chúng ta nên áp dụng cách chữa bênh của ông bà cha mẹ, vừa dễ dàng, vừa rẻ tiền lại rất khoa học và công hiệu tức khắc, giúp giữ gìn sức khỏe và nhất là khỏi bị tàn tật oan.

LM Hoàng Minh Thắng

 

by Tháng Tám 31, 2012 2 comments Tài liệu TKNăng
Mục lục sách TỰ CHỮA BỆNH BẰNG THIÊN KHÍ NĂNG

Mục lục sách TỰ CHỮA BỆNH BẰNG THIÊN KHÍ NĂNG

          https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/08/BI%C3%80_Tu_chua_benh_bang_Thien_Khi_Nang.jpg         

MỤC LỤC

 Lời tựa Một khám phá tình cờ

 Chương I: Ơn gọi sống khỏe mạnh và hạnh phúc tràn đầy

      1.Ơn gọi sống khỏe mạnh và hạnh phúc tràn đầy

      2.Căn nhà ba tầng: nhận chân thực tại ba chiều kích của cuộc sống

      3.Duy trì thế quân bình “thiên, địa, nhân”

      4.Bệnh tại tâm

      5.Nấu “lẩu tâm linh”

      6.Linh đạo “ấu thơ”: cải lão hoàn đồng      

      7.Chúng ta chỉ sống một lần duy nhất

 Chương II: Cách mạng kiểu hít thở, ăn uống và cử động

      1.Thay đổi kiểu hít thở, tập hít thở chậm, dài và sâu

      2.Thay đổi kiểu ăn uống

             1) Trước hết phải uống nhiều nước mỗi ngày: ít nhất là 2,5 lít

             2) Ăn nhiều rau và trái cây, ít thịt, nhiều cá

      3.Thay đổi kiểu mặc: mặc đủ ấm trong mùa lạnh

      4.Các cử động của tuổi thơ: mốt số động tác đơn sơ gíúp khí huyết lưu thông, thân thể giãn xả

      5.Đạt Ma dịch cân kinh: bài võ dưõng sinh và trị bệnh nổi tiếng

      6.Tập thể dục bàn nhún rebounder

      7.Sống vui, tích cực và bác ái

 Chương III: Vài bài thuốc thần hiệu

       1.Đánh cảm

             1) Lý do

             2) Một số triệu chứng thông thường dễ nhận ra

             3) Cách chữa

      2.Dầu dừa

      3.Cây Nim (Neem)

      4.Cây Aloe

      5.Rượu tỏi

      6.Lá Lô Quất

      7.Tẩy sạn gan và sạn mật

      8.Tẩy sạn thận

      9.Tấy lọc toàn diện cơ thể

      10.Chữa bệnh trĩ

 Chương IV: Thân thể con người, thế giới huyền diệu

       1.Thân thể con người là một tiểu vũ trụ vô cùng tinh vi

               1) Một vài con số

               2) Ba hệ thống luân lưu

      2. Bấm huyệt, thoa bóp phản xạ học và châm cứu

              1) Thịnh hành bên Ai Cập vàTrung Hoa

              2) Thoa  bóp phản xạ học được tái khám phá và phổ biến bên Hoa Kỳ

              3) Những kết qủa “thần hiệu” của phản xạ học

      3. Mười vùng năng lượng và thần kinh hệ trên thân thể con người

      4. Nắn bàn chân để chẩn bệnh

      5. Âm dương và hệ thống kinh huyệt trong quan niệm Đông y

              1) Ý nghĩa

              2) Năm nguyên tắc của Âm Dương

      6. Một vài kết qủa của các nghiên cứu liệu pháp châm cứu, bấm huyệt và thoa bóp phản xạ học

      7. Mắt và răng cũng phản ánh tình trạng sức khỏe của các cơ phận con người

      8. Tương quan giữa chu kỳ hoạt động của các cơ phận với các đường kinh âm dương và các vùng khác trong thân thể con người

             1) Chu kỳ hoạt động “thận – bàng quang”

             2) Chu kỳ hoạt động “gan – mật”

             3) Chu kỳ hoạt động “lá lách –  tụy tạng – dạ dầy”

             4) Chu kỳ hoạt động “phổi – ruột già”

             5) Chu kỳ hoạt động  “tim – ruột non”

Chương V: Thiên Khí Năng trong thế giới Kinh Thánh, quan niệm Đông y, thần thoại, triết học và sinh lý học Ấn Độ

      1.Thiên khí năng trong thế giới Kinh Thánh

             1) Con người là bản vị có thần khí, hơi thở của Thiên Chúa

             2) Phục sinh, sống lại là có được trở lại sinh khí và thần khí, basar, ruakh và trở thành nephesh

             3) Thần khí hiện diện nơi Đức Khôn Ngoan và muôn loài muôn vật

             4) Thần khí hiện diện nơi sứ giả của Thiên Chúa

             5) Logos Lời tạo dựng

             6) Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng và đặt tay chữa lành tật bệnh

             7) Đức Giêsu sai các môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng, ban cho các ông quyền xua trừ qủy dữ và chữa lành tật bệnh

             8) Các đặc sủng khác nhau trong Giáo Hội

             9) Giáo Hội tiếp nối sứ mệnh rao truyền Tin Mừng, xua trừ qủy dữ và chữa lành tật bệnh

      2.  Thiên khí năng trong quan niệm Đông y

             1) Ba kho tàng nền tảng của sự sống và sức khỏe con người: sinh, khí, thần

             2) Ba chất nền tảng: khí, huyết và chất lỏng

             3) Khí và 5 nhiệm vụ

      3. Thiên khí năng trong thần thoại Ấn Độ

             1) Dòng chảy Kundalini, năng lực di chuyển theo đường xoáy trôn ốc và 72.000 đường kinh với 3 kinh chính là Sushumna, Ida và Pingala

             2) Các sợi dây Gunas nối liền vùng đất không được biểu lộ từ đó nảy sinh mọi sự: Tamas vật chất, Rajas khí năng, Sattva trí tuệ, ý thức

      4. Thiên khí năng trong triết học và sinh lý học truyền thống Ấn Độ

             1) Ý nghĩa  và cấu trúc của “chakra”

             2) Hệ thống các chakra và các vùng tương ứng trong thân thể con người

       5. Bẩy hào quang chung quanh thân thể con người

Chưong VI: Thiên khí năng trong quan niệm vật lý: một vũ khúc trong vũ điệu đại đồng của vũ trụ

       1.Ảnh hưởng của môi trường trên con người

               1) Con người sống được nhờ môi sinh thiên nhiên và vũ trụ

               2) Con người là sản phẩm của môi trường

       2.Thiên khí năng trong quan niệm vât lý cổ điển

               1) Vật lý học khai sinh cách đây 2.500 năm

               2) Democrito và thuyết nguyên tử

               3) Empedocle với thuyết bốn chất lượng biểu tượng

               4) Aristotele và bốn nguyên tắc trừu tượng áp dụng cho mọi biến cố

               5) Trường phái Khắc Kỷ và quan niệm lực trưòng

               6) Isaac Newton với bốn lực trong vũ trụ và quan niệm cơ khí

               7) Charles de Coulomb với thuyết điện từ của vũ trụ

               8)Các điện từ trường

       3.Thiên khí năng trong vật lý học nguyên tử

              1) Albert Einstein và thuyết tương đối

              2) Einstein vượt Newton, vì ông ra khỏi ba chiều kích của các vật thể cứng đặc (dài, rộng, cao) và đưa vào đó thời gian thay đổi

              3) Thế giới nguyên tử

              4) Empedocle đã giả thiết 4 loại nguyên tử

      4.Thiên khí năng và vật lý lượng tử

      5.Thiên khí năng trong vật lý Quark

      6.Vật chất là khí năng

      7.Các chakra trong quan niệm vật lý khí năng

Chương VII: Cách hít thở và khởi động các chakra để lấy Thiên khí năng

      1.Cách hít thở để lấy được Thiên khí năng

      2.Cách khởi động các chakra để lấy Thiên khí năng

Chương VIII: Cách chữa bệnh bằng Thiên khí năng

      1.Cách đặt tay

      2.Cách tự chữa bệnh và chữa bệnh cho người khác

      3.Các thế đặt tay trên các vùng thân thể để chữa bệnh

      4.Thời gian trị liệu

Tài liệu tham khảo

Linh Mục Hoàng Minh Thắng

GHI CHÚ Nơi mua sách Thiên Khí Năng và 66 Công Thức Thảo Dược:
* Việt-Nam:              [email protected] – ĐT: 0923704353
* Hoa-Kỳ   :              Tien Tran <[email protected]> – ĐT: (405) 821-1678
* Úc châu    :  Hoàng Minh Hùng <[email protected]> ĐT: 0415 652 211
* Pháp và Châu Âu: SCHUMACHER  Trang < [email protected]> – ĐT: 03 89 54 23 27
 

by Tháng Tám 28, 2012 4 comments Tài liệu TKNăng
Thiên Khí Năng là gì? Ưu điểm của TKN

Thiên Khí Năng là gì? Ưu điểm của TKN

       Thiên khí năng là sinh lực hiện diện và luân lưu trong vũ trụ dưới muôn vàn dạng thức khác nhau như: thần khí, ánh sáng, sức nóng, không khí, nước, gió, lửa và các dạng năng lượng vv… Năng lực vũ trụ đại đồng ấy bắt nguồn từ Thiên Chúa, thấm nhập và trao ban sinh lực cho mọi loài mọi vật: con người, súc vật, thảo mộc và mọi thứ chất liệu của thế giới sự vật, mà chúng ta thường lầm tưởng là thế giới vô tri vô giác.

       Ngày nay, khoa học vật lý, đặc biệt là vật lý nguyên tử, vật lý duy lượng tử và hạt quark chứng minh cho chúng ta thấy rằng toàn vũ trụ và thế giới này là khí năng, là các rung động. Vật lý khí năng là nguyên lý nền tảng của tất cả các loại máy móc chúng ta sử dụng hằng ngày mà không biết như: phát thanh, truyền hình, internet, điện thoại, Iphone, Ipad, cửa xe hơi, thang máy, cổng nhà đóng mở tự động vv… nhờ ”luồng ánh sáng photon”.

       Thiên khí năng là nguồn năng lực vô tận Thiên Chúa Tạo Hóa cống hiến cho chúng ta trong vũ trụ. Ai cũng có thể học cách tiếp nhận nó để tự chữa bệnh cho chính mình và cho người khác, mà không cần phải có các điều kiện đặc biệt nào, ngoài việc tập hít thở đúng cách và trong một thời gian lâu đủ, để nhận được thiên khí năng và sẽ không bao giờ bị mất đi.https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/10/post.gif

        Linh Mục Giuse Hoàng Minh Thắng

https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/09/tkn.gif

ƯU ĐIỂM CỦA THIÊN KHÍ NĂNG

 Kính chào quý vị,

 Ngay khi được học biết về môn Thiên khí năng và thấy nhiều bệnh kể cả những bệnh rất nặng được chữa lành hoàn toàn ngoài sức tưởng tượng của mọi người, tôi cảm thấy rất vui vì thấy Thiên Khí Năng có quá nhiều ưu điểm. Xin trình bày nơi đây để quý vị cùng tham khảo.

 ƯU ĐIỂM 1: CON NGƯỜI ĐƯỢC TỰ DO HOÀN TOÀN

Từ đây, tôi không còn phải vướng bận bên mình những thứ lỉnh kỉnh nào cả! Không cần bất kỳ y cụ nào! và bệnh nhân không phải sợ hãi, vì không chút đau đớn nào. Hai bàn tay của tôi chỉ cần đặt nhẹ vào nơi đau, có khi đặt xa người bệnh vẫn có kết quả như thường.

Tạ ơn Chúa vô cùng! Ở đâu có bệnh nhân cần chữa bệnh, dù đang trong nhà, hay ngoài đường phố, hoặc ngồi trên xe…tôi đều có thể chữa bệnh cho họ ngay lập tức, không tốn một giây chuẩn bị, không tốn một đồng để mua thuốc…mà đã có thể chữa lành cho họ.

 ƯU ĐIỂM 2: THIÊN KHÍ NĂNG HOÀN TOÀN MANG TÍNH KHOA HỌC

“Thiên Khí năng là năng lực rung động trong vũ trụ đại đồng. Cấu trúc âm dương khiến cho thân thể chúng ta là một từ trường, bao gồm nhiều mức độ khác nhau và các chakra, là các trung tâm năng lực giúp chúng ta thông truyền với năng lực của vũ trụ và được nuôi dưỡng bởi nó. Con người có thể tiếp nhận được thiên khí năng hay các năng lực rung động ấy, và truyền cho người khác để giúp họ tái lập thế quân bình, củng cố sức khoẻ, mà không cho, cũng không mất đi cái gì của chính mình.” (Sách Thiên Khí Năng – LM Giuse HMT)

Mặc dù năng lượng không định hình được, nhưng hít thở để lấy năng lượng là vấn đề ta cảm nhận được ngay trong cơ thể của mình. Hít thở đúng cách là vấn đề rất thiết yếu gắn liền với vấn đề sinh tử của tất cả mọi người, mọi vật…

Dù không nhìn thấy hơi thở, nhưng mọi người đều cảm nhận được “hơi thở”, mặc dù chúng ta không quan tâm đến nó bao nhiêu. Nhiều khi ta thấy hít thở là chuyện quá tầm thường, hầu như chẳng ai lo “làm giàu” cho hơi thở của mình cả! Chúng ta đầu tư đủ mọi thứ, nhưng chẳng ai quan tâm “đầu tư” hơi thở! hay chưa bao giờ đặt vấn đề có cần phải thay đổi cách hít thở hay không? Thay đổi hơi thở thì có ích lợi gì hơn không?…

Môn phái Yoga đã từng quả quyết: “Hấu như tất cả mọi người chưa biết cách thở!”. Đó là lý do phát sinh nhiều bệnh tật mà lâu nay ta không hề biết. Chúng ta hùng hục làm việc, có khi làm “không kịp thở!”, và khi mệt quá thì “há miệng để thở!” mà không hiểu nguyên lý tự nhiên của nó.

Chúng ta chỉ lo tìm thuốc để diệt vi trùng này, virus nọ, vi khuẩn kia…nhưng chưa bao giờ biết rằng “thay đổi hít thở” là cách tốt nhất để “tăng cường sức khoẻ”, để “kéo dài tuổi thọ”, để “chữa lành bệnh tật” và ngay cả để “phục hồi sự sống” cho con người.

Bạn có thể tin chắc như vậy, vì sao? Vì khi hít vào cách “nhẹ, chậm, êm, sâu” là ta đang tích luỹ dần dần một lượng oxy (dưỡng khí) thật nhiều. Trong khi thở ra dài gấp đôi…là ta đã thải ra một lượng CO2 (thán khí) thật lớn trong suốt 4 tiếng đồng hồ. Như vậy, khi cơ thể chỉ còn lượng oxy thật cao…Phản ứng hoá học sẽ phát sinh làm “cháy” oxy, và đương nhiên là bạn sẽ nhận được “nhiệt lượng” như một luồng nóng châu lưu khắp cơ thể, và người bạn sẽ run giật khi có “dòng điện chạy trong người”. Đó là chuyện bình thường, một hiện tượng vật lý đơn giản nhất mà bạn có thể hiểu được, cảm nghiệm được ngay trong quá trình hít thở để cơ thể “nạp năng lượng”. Chính năng lượng này khi qua các chakra, tác động vào các tuyến nội tiết, giúp tái lập quân bình trong cơ thể và chữa lành bệnh tật.

 ƯU ĐIỂM 3: “10 KHÔNG”

Thật sự mà nói, thì chẳng phải “10 không” mà còn là “hơn 10 không” nữa kia! Nhưng chúng ta chọn con số 10 như một kiểu nói về sự hoàn hảo, sự tròn đầy mà thôi.

1)    Không phân biệt màu da, ngôn ngữ, sắc tộc, tôn giáo nào. Bất kỳ người thuộc nước nào, dân tộc nào, ngôn ngữ nào đều có thể hít thở lấy được thiên khí năng như nhau. Người thuộc tôn giáo nào đều có thể tự do kêu cầu với Đấng mà mình tôn thờ, Đấng mình tin tưởng cậy trông và phó thác cuộc sống. Quý vị không phải đọc kinh công giáo mới lành bệnh. Nhưng đã có nhiều người ngoài công giáo vẫn lấy được thiên khí năng, vẫn đang cộng tác với chúng tôi trong việc điều trị giúp các bệnh nhân khác ngay cả khi họ là người không tôn giáo.

2)    Không mất công luyện tập nhiều: Nhiều người nghe nói tập hít thở ít nhất 4 tiếng cho lần hít thở lấy thiên khí năng đầu tiên, đã cảm thấy “ngao ngán” và cho là không thể làm được! Trong khi các môn khác đòi hỏi thời gian dài hơn gấp bao nhiêu lần để luyện tập; khi cần “mở 1 chakras thôi” có khi phải mất vài tháng. Sau đó, lại phải luyện tập hằng ngày, mỗi ngày 1 tiếng, 2 tiếng hay hơn nữa. Trước khi chữa bệnh phải “nạp”; chữa bệnh xong phải “xả” rồi phải “nạp lại” Trong khi thiên khí năng không hề cần điều đó!

3)    Không giới hạn thời gian đặt tay hay số lần chữa bệnh! Có thể bạn chỉ cần đặt tay vài phút, cơn bệnh đã rút lui. Nhưng trường hợp bệnh nặng hay bệnh lâu năm, bạn cần đặt thời gian lâu hơn. Bạn có thể đặt bao lâu tuỳ thời gian của bạn cho phép. Một ngày bạn có thể đặt tay bao nhiêu lần cũng được, miễn là bạn có thời gian! và người bệnh không quá yếu nhược, không đón nhận nổi!

4)    Không kiêng kỵ bất cứ thứ gì, vật gì hay thức ăn nào! Năng lượng dạng sóng vi-ba của thiên khí năng xuyên qua được bất cứ cấu trúc vật chất nào, dù là sắt đá hay gang thép. Nó cũng không dẫn điện gây “tai nạn” cho bất kỳ ai! Cũng không kiêng kỵ màu sắc nào! Và cũng chẳng sợ bị “gió bạt đi!”. Đảm bảo là không hề có phản ứng phụ nào!

5)    Không lây bệnh khi đặt tay chữa bệnh. Tôi có ý nói người chữa trị luôn có luồng năng lượng mạnh hơn bệnh nhân, vì khi đặt tay là giúp đưa năng lượng trong thiên nhiên vào cơ thể bệnh nhân, mà nguồn năng lượng đó thì vô tận. Và chính năng lượng đó sẽ củng cố hệ miễn nhiễm, tăng cường sức đề kháng, để cơ thể tự chữa lành theo chức năng của chakra liên hệ. Do đó, người chữa trị luôn ở thế “thượng phong” chứ không bị lây bệnh của người khác. Tuy nhiên, phải luôn khôn ngoan khi tiếp xúc các bệnh nhân lây nhiễm theo đúng vệ sinh thường thức thông thường nhất.

6)    Không mất sức khi chữa bệnh. Quả thật, chúng ta không dùng nội lực của mình để chữa trị, mà là dùng chính năng lượng vô biên để điều chỉnh, để tái tạo quân bình trong cơ thể bệnh nhân. Do đó, ta không “cho” bệnh nhân cái gì của mình, và cũng không “mất” gì! ngoại trừ lòng yêu thương muốn cứu giúp các bệnh nhân mau khỏi bệnh sẽ cho ta sự kiên trì trong chữa trị, sự vui tươi ân cần thăm hỏi bệnh nhân, và ngay cả sự quảng đại bỏ qua khi gặp những phiền phức trái ý trong khi chữa bệnh…và nhất là luôn cầu nguyện cho bệnh nhân được khỏi bệnh (nếu điều đó đẹp ý Chúa)

7)    Không tốn tiền!  Đó là điều chắc chắn, vì bạn không cần phải tốn kém mua sắm y cụ, không tốn tiền thuốc men. Và cũng không tốn tiền xe cộ đi đến bệnh viện hay trạm xá nữa, vì bạn đã có thể chữa trị cho chính mình, ngay cả đêm hôm khuya khoắt hay lúc mưa to gió lớn hoặc khi có giông bão…

8)    Không bao giờ mất Thiên khí năng!  Điều này chỉ có nghĩa là “cục pin” của chúng ta không bao giờ chai. Chăm chỉ luyện tập hít thở sẽ giúp bạn luôn dồi dào sức khoẻ, khả năng chữa trị tốt, kết quả khỏi bệnh cao. Nếu muốn trở thành “thầy thuốc” thật sự, chúng ta cần hít thở cho đạt mỗi ngày. Nếu chỉ cần chữa cho vài người trong gia đình, khuyên bạn hít thở cho đạt mỗi tuần ít nhất 1 lần. Nếu chỉ để chữa cho chính mình, thì bạn có thể hít thở đạt TKN ít nhất 1 tháng 1 lần…

9)    Không bao giờ tẩu hoả nhập ma! Vì chúng ta được mở tất cả 12 chakras cùng một lúc. 6 cặp chakra đối xứng đều được “mở” thông thoáng, nên khi đưa lượng oxy vào cơ thể êm nhẹ như một giòng chảy, không ngưng, không nén, không chuyển, không ém…Do đó, hơi thở cứ điều hoà lưu chuyển, không thể gây rối loạn cho luồng khí ra vào, nên chắc chắn không bao giờ “tẩu hoả nhập ma!”

10)  Không bí truyền! Đây là hồng ân Chúa ban cho con người, để người người giúp đỡ nhau có được sức khoẻ dồi dào và hạnh phúc đích thực. Ý thức được điều này Đức Ông Giuse Hoàng Minh Thắng và cả chúng tôi, những người đang sử dụng liệu pháp Thiên khí năng, đã nhận được cách nhưng không, cũng luôn tìm mọi cách đem TIN VUI này đến cho những người khác. Càng nhiều người khỏi bệnh nhờ thay đổi cách hít thở theo kiểu Thiên khí năng, niềm vui nơi chúng tôi càng tăng lên gấp bội. Do đó, chẳng những không bí truyền, mà chúng tôi còn muốn “LOAN TRUYỀN” rộng rãi hơn bao nhiêu có thể, để mọi người cùng khỏe mạnh, cùng vui, cùng hạnh phúc.

Tóm lại, dù liệu pháp này chưa được nhiều người biết đến, nhưng nó vẫn có giá trị đích thực của nó. Dù liệu pháp này cũng có những giới hạn trong chữa trị, vì không thích hợp với một số người, đôi khi do họ không thể thay đổi cách hít thở vì bệnh tật, vì thói quen…thì số người khỏi bệnh nhờ TKN vẫn gia tăng, số người dấn thân chữa trị giúp người khác cũng nhân lên. Và nhất là ngày càng nhiều người tham gia tìm hiểu và quyết tâm thay đổi cách hít thở, để có thể cải thiện sức khoẻ.

Phúc cho những “người nghèo”, những người bệnh nặng chỉ còn biết tin tưởng, phó thác và cố gắng hết sức mình, để xin Ơn Trên giúp mình chữa lành bệnh tật.

Xin Thiên Chúa Tình Yêu trả công bội hậu cho Đức Ông Giuse và chúc lành cho anh chị em Thiên khí năng viên chúng con đang dấn thân phục vụ những bệnh nhân nghèo khó.https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/10/post.gif

Ngày 13 tháng 5 năm 2013
Nữ tu M. Clara Phạm Thị Minh Tâm SJP
(trích nội san kỷ niệm 1 Năm Thành Lập TĐMVSK VN 29.6.12 – 29.6.13)



by Tháng Tám 26, 2012 Comments are Disabled Tài liệu TKNăng
Tầm quan trọng của việc hít thở

Tầm quan trọng của việc hít thở

I. Thay đổi kiểu hít thở: tập hít thở chậm, dài và sâu

        Dưỡng khí tối cần thiết cho cơ thể con người. Không ăn uống, con người có thể sống được vài tuần, nhưng nếu thiếu dưỡng khí trong vòng 5 phút, con người sẽ chết, hay may ra có được cứu sống, thì não bộ sẽ bị hư hại nặng nề, sẽ tê bại và tàn tật suốt đời.

       Dưỡng khi cần thiết cho cuộc sống con người đến thế, nhưng chúng ta thường ít ý thức được điều đó, và cũng không biết hít thở đúng cách để có được số lượng dưỡng khí đầy đủ giúp cơ thể lành mạnh.

       Rất thường khi chúng ta hít vào bằng mũi và thở ra cũng bằng mũi, hơi thở lại rất ngắn, vì dưỡng khí chưa xuống hết cuống phổi. Đây là lý do giải thích nguyên nhân của nhiều thứ bệnh, bởi vì lượng dưỡng khí cần thiết cho não bộ, phổi, và các cơ phận khác qúa ít. Tình trạng thiếu dưỡng khi lâu ngày khiến cho các cơ phận suy yếu, hoạt động không bình thường và dễ lâm bệnh. Thiếu dưỡng khí là một trong những nguyên nhân gây ra nhiều tật bệnh trong đó có bệnh nhức đầu và mệt mỏi. Chính vì thế nguyên tắc đầu tiên trong thuật dưỡng sinh: đó là ý thức trở lại sự cần thiết của dưỡng khí đối với sức khỏe của mọi cơ phận trong thân thể con người và tập hít thở đúng đắn.

    1. Điều đầu tiên cần làm đó là, nếu ở nhà lầu, mỗi ngày nên lên xuống cầu thang nhiều lần để cho máu huyết lưu thông, nhịp tim đập mạnh và nhanh hơn, bắt buộc chúng ta hít vào nhiều dưỡng khí hơn và thải ra nhiều thán khí hơn. Vì thế mỗi ngày nên tìm cách đi bộ bước nhanh, hay bơi lội, tốt nhất khoảng 30 phút trở lên, hoặc làm một số cử động thể dục, thể thao, làm vườn, quét dọn nhà cửa vv… lại càng tốt hơn nữa.

    2. Nhưng quan trọng hơn cả là tập thở: hít vào bằng mũi, thở ra bằng miệng

       Để hít dưỡng khí phải ngậm miệng lại, đó là điều ai cũng biết. Nhưng để thở thán khí ra ngoài, thường khi chúng ta làm sai. Nghĩa là thay vì thở ra bằng miệng, chúng ta lại cũng thở ra bằng mũi. Nhưng như thế là không đúng với tác động được diễn tả bàng hai từ “hít” và “thở” theo luật luân chuyển của mọi cơ phận trong thân thể con người là “tiểu vũ trụ” cũng như của “đại càn khôn” là toàn vũ trụ. Thế rồi kiểu hít thở bằng mũi vừa sai lại vừa ngắn, chưa đủ để cho dưỡng khí vào tới mọi tế bào trong buồng phổi và các bộ phận khác của thân thể. Nếu đếm nhịp, kiểu hít thở này của chúng ta mới chỉ được tới ba, ít khi tới bốn. Trong khi nhịp hít vào bằng mũi ít nhất phải là 7, và nhip thở ra bằng miệng phải là 10 hay 14.

       Do đó, bài học đầu tiên của Thuật Dưỡng Sinh và cũng là điều nòng cốt để có được thiên khí năng là phải tập thở:

        1) Hít vào bằng mũi.

        2) Thở ra bằng miệng.

        3) Chậm, dài và sâu, nhẹ nhàng như nước chảy.

        4) Mà không phải cố gắng, cũng không dẫn khí, không nén khí.

        5) Khi hít vào bằng mũi nhẩm đếm tới 4 hay 7.

        6) Khi thở ra bằng miệng nhẩm đếm tới 10 hay 14.

        7) Đầu óc hoàn toàn trống rỗng, không nghĩ ngợi gì cả.

       Càng tập lâu, hơi thở càng dài, bạn càng hít vào nhiều dưỡng khí cho cơ thể, thì càng thải ra nhiều thán khí. Chính nhịp thở chậm, dài và sâu, đầu óc trống rỗng thanh thản đó khiến cho các cơ phận được mạnh khỏe, vì nhận được dưỡng khí bồi bổ dồi dào và thải hết thán khí là cặn bã ra ngoài.

    3. Cách thế nằm hay ngồi thở

       Để thở như trên bạn có thể ngồi trên ghế hay nằm trên giường hoặc bất cứ đâu, miễn là trong tư thế hết sức giãn xả, tự nhiên, thoải mái, không gò bó, co quắp.

      Tư thế ngồi thở:  

          1) Tốt nhất là ngồi trên ghế đẩu (để không dựa lưng vào đâu cả).

          2) Lưng thẳng.

          3) Đầu, mắt nhắm hay nhìn thẳng về phía trước.

          4) Khoảng cách giữa hai chân bằng khoảng cách hai vai.

          5) Hai bàn tay để ngửa trên đầu gối.

          6) Toàn thân trong tư thế hoàn toàn giãn xả.

          7) Hít, thở theo cách thức trình bầy ở trên.

       Tư thế ngồi thở này là một trong các cách thức nghỉ ngơi và lấy lại sức lực rất công hiệu, có thể áp dụng tại khắp mọi nơi và trong mọi lúc. Chỉ cần vài phút là bạn tái tạo sinh lực cho tâm trí và cơ thể của bạn. Toàn thân trong tư thế hoàn toàn giãn xả và đầu không nghĩ ngợi gì là hai yếu tố rất quan trọng. Để không nghĩ ngợi gì, bạn nhẩm đếm nhịp thở của mình: khi hít vào đếm từ 1 cho đến 4 hay 5 hoặc 6, cho tới khi nào còn hít được dưỡng khí, mà không cần phải cố gắng. Hễ thấy đầy rồi, thì thở ra và khi thở ra bằng miệng, thì đếm gấp đôi, hay hơn một chút. Cần nhất là thở chậm và sâu trong tư thế hoàn toàn thanh thản, nghỉ ngơi. Càng thở quen, hơi thở của bạn càng dài, lượng dưỡng khí hít vào và lượng thán khí thả ra càng nhiều. Lấy dưỡng khí vào cơ thể và thả thán khí khỏi cơ thể khiến cho bạn khỏe mạnh.

       Nếu nằm trên giường hay ở đâu đó thì

          1) Duỗi thẳng chân tay.

          2) Khoảng cách giữa hai chân bằng khoảng cách hai vai.

          3) Cánh tay song song với thân mình.

          4) Lòng bàn tay ngửa lên trời.

          5) Mắt nhắm.

          6) Toàn thân trong tư thế hoàn toàn giãn xả.

          7) Hít, thở theo cách thức trình bày ở trên.

       Đây là một kiểu tịnh thiền hết sức đơn sơ và dễ dàng, mà ai cũng có thể làm được. Điều quan trọng nhất là tạo chân không trong chính mình, tức là đầu óc hoàn toàn trống rỗng, nghỉ ngơi, không nghĩ ngợi gì cả. Hai bàn tay ngửa lên trời trong thế giãn xả thoải mái diễn tả thái độ sống quảng đại, sẵn sàng nhận lãnh và sẵn sàng cho đi, không giữ lại gì hết.

    4. Công hiệu

       Kiểu tịnh thiền hít thở chậm, dài và sâu này tác dụng rất hữu hiệu trên toàn tâm trí và cơ thể con người. Vì cung cấp dồi dào dưỡng khí cho cơ thể đồng thời thải hết thán khí và căng thẳng, nên nó giúp:

          1) phục hồi sức lực tâm sinh vật thể lý,

          2) tái lập thế quân bình cho bộ máy hô hấp và tuần hoàn,

          3) trấn an tâm thần, giúp bình tĩnh, thanh thản,

          4) chữa bệnh tim, nóng nảy, âu lo, áp huyết cao, khó thở, mất ngủ, nhức đầu, khó tiêu, mệt mỏi…

       Bình thường kiểu tịnh thiền và hít thở chậm, dài và sâu này công hiệu nhất vào ban sáng và ban tối. Càng tập được lâu bao nhiêu, càng tốt bấy nhiêu. Nhưng thật ra, càng năng thực tập phương pháp hít thở dưỡng sinh theo kiểu chỉ dẫn trên đây bao nhiêu, bạn càng khỏe mạnh bấy nhiêu, bởi vì tâm trí và thân xác của bạn thường xuyên được nghỉ ngơi bồi dưỡng, dù chỉ trong năm ba phút.

       Đặc biệt nếu bạn hít thở và thiền được như thế, khoảng 15-30 phút mỗi sáng và mỗi tối, dần dần bạn sẽ thấy cơ thể khoẻ mạnh, và trong người rất an bình, thanh thản.

       Kiểu hít thở này rất cần thiết để có được thiên khí năng, như sẽ được trình bày trong chương VII “Cách khởi động các chakra”.

          LM Giuse Hoàng Minh Thắng

 

by Tháng Tám 24, 2012 2 comments Tài liệu TKNăng
ĐÁNH CẢM bằng TRỨNG GÀ và ĐỒNG BẠC

ĐÁNH CẢM bằng TRỨNG GÀ và ĐỒNG BẠC

ĐÁNH CẢM BẰNG TRỨNG GÀ VÀ ĐỒNG BẠC

 

CẢM LẠNH VÀ CÁC HẬU QỦA BIẾN CHỨNG

 I. Lý do  

 II. Một số triệu chứng thông thường 

     1. Các triệu chứng bình thường dễ nhận ra 

      2. Triệu chứng chính

 III. Cách chữa

      1. Bình thường có thể cạo gió.  

      2. Xông với nước lá

      3. Đánh cảm bằng cám rang  

      4. Đánh cảm bằng gừng  

      5. Đánh cảm bằng trứng gà và đồng bạc nguyên chất (pure silver coin)  hay các đồng tiền có pha bạc.


ĐÁNH CẢM BẰNG TRỨNG GÀ VÀ ĐỒNG BẠC

CẢM LẠNH VÀ CÁC HẬU QỦA BIẾN CHỨNG

Cảm lạnh là một một bệnh rất thông thường. Nhưng ngoại trừ một số dấu chỉ quen thuộc như sổ mũi, tịt mũi, nhức đầu, người gai gai sốt, khó chịu ai cũng biết, cảm lạnh thường khiến cho nhiều cơ phận khác bị suy yếu và gây ra một số bệnh, mà các bác sĩ tây y và cả đông y cũng không khám ra, không biết lý do tại sao, vì không có các vết nội thương ngoại thương, cũng không có vi khuẩn và không có cơ phận nào bị hư hỏng. Tuy không biết là bệnh gì nhưng các bác sĩ vẫn cho thuốc, thường là thuốc giảm đau, càng uống càng không khỏi, lâu ngày bị mất trí nhớ, loét bao tử, hư thận và khiến cho hệ thống thần kinh bị tê liệt. Cảm lạnh thường gây đau nhức tứ chi mình mẩy đến tê bại không cử động được, nên có bác sĩ cho là hệ thần kinh bị hư và để nghị giải phẫu…

 I. Lý do  

1. Trời mưa, trời gió hay trời lạnh mà mặc không đủ ấm, đầu không đội mũ, chân không đi giầy, không mang tất ấm, cổ không quấn khăn v.v… vì thế các cơ phận thuộc bộ máy hô hấp (mũi, miệng, cổ họng, phổi… ) và tuần hoàn (tim, dạ dầy, ruột, gan, thận, lá lách…) bị lạnh. Khí âm xâm nhập nhiều qúa làm mất thế quân bình trong cơ thể, gây bế tắc kinh mạch, và suy yếu các cơ phận.

2. Ngồi trúng chỗ có luồng gió  (ở tư gia, trong nhà thờ, nhà hội có mở cửa trước cửa sau, hay cửa ngang hông, trong xe mở cửa kính hay máy lạnh quá vv… ) có thể đưa đến chỗ bị cảm.

3. Thay đổi nhiệt độ: Đặc biệt tại những vùng sáng sớm và ban chiều trời lạnh, nhưng ban trưa trời nóng (điển hình như California, Texas… ), có rất nhiều người bị cảm lạnh, vì không để ý, mặc không đủ ấm khi đi làm ban sáng và về nhà lúc chiều tối. Cứ thế, khí âm nhập vào người mỗi ngày một chút, và từ từ khiến cho cơ thể bị suy nhược và sinh ra nhiều triệu chứng mà không biết là bệnh gì.

 II. Một số triệu chứng thông thường dễ nhận ra  

1. Các triệu chứng bình thường dễ nhận ra:  

1) Sổ mũi, tịt mũi

2) Nhức đầu, nặng đầu

3) Ho

4) Cảm thấy người vừa nóng vừa lạnh: hơi sốt hay sốt nặng (khi có vi khuẩn gọi là bệnh cúm)

5) Bần thần, mỏi mệt trong người

 2. Triệu chứng chính : Nhưng chính vì khí âm xâm nhập thân thể, khiến bế tắc kinh mạch, máu huyết và làm suy yếu các cơ phận hô hấp và tuần hoàn, nên cảm lạnh làm nảy sinh ra nhiều triệu chứng, mà cả các bác sĩ cũng không biết và không ngờ tới.

1) Trằn trọc, khó ngủ ban đêm

2) Ngủ không thẳng giấc, đi tiểu lắp nhắp ban đêm, hay bị chuột rút

3) Đổ mồ hôi ban đêm

4) Đầy bụng, khó tiêu

5) Nhất là đau và nhức mỏi trong người: đặc biệt là hai cánh tay, cổ, bả vai, sống lưng, đầu gối, hai chân và hai bắp chân.

6) Nhiều khi có cảm tưởng như bị đau nhức thần kinh hay từ trong xương, đến độ bị bại xuội, cổ không quay được, không giơ hay co tay chân lên được, không cúi xuống được hay không thể mặc và cài cúc áo quần, vv….

Đi khám bác sĩ, chụp phim thì không có cơ phận nào bị hư hại hay tật bệnh gì. Các bác sĩ chỉ biết cho thuốc giảm đau, bệnh nhân có cảm tưởng giảm đau nhức, nhưng càng uống càng tệ hại thêm, vì người ngày càng bần thần, mỏi mệt và đau nhức hơn. Thuốc giảm đau, thuốc ngủ sinh ra bệnh mất trí nhớ, đau bao tử và đau thận…

7) Tức ngực, nhói ngực, khó thở, hụt hơi

8) Nghẹt tim, tim hồi hộp, ngộp thở, hay có cảm tưởng bị bệnh tim

9) Khó tiêu, táo bón, nặng bụng, ợ chua

10) Đau bụng lâm râm

11) Tiêu chảy

12) Đau tức bên hông phải trên vùng gan,

13) Đau tức bên hông trái trên vùng lá lách

14) Teo tĩnh động mạch trên đầu (dẫn tới chỗ đau đầu và bị tai biến mạch máu não vì lượng hồng huyết cầu và dưỡng khí không lưu thông đủ để nuôi óc)

      15) Da mặt xanh xao, tái mét hay thâm, và người lúc nào cũng cảm thấy bần thần, mệt mỏi như mất hết sức lực, chán nản, buồn sầu, chỉ muốn đi nằm, không muốn làm gì, và không làm được gì, vì người lúc nào cũng mệt mỏi.

– Đi khám bác sĩ, thử máu, thử phân, thử nước tiểu, chiếu điện, thì không tìm ra bệnh gì, và ai cũng bảo là bệnh giả đò.

16) Trẻ em bị cảm lạnh thì khó ngủ, hay ói sữa, biếng ăn, táo bón (hai ba ngày mới đi một lần, mà phải dùng thuốc, phân hôi), tiêu chảy, hay khóc, quấy, da không trắng và hồng hào, nhưng tái mét, khi khóc thì tím ngắt mặt mũi chân tay và không dỗ được.

– Tất cả các triệu chứng trên đây đều có thể do cảm lạnh mà ra, đặc biệt các trường hợp đau nhức số 5, trường hợp số 15 và số 16 là dấu chứng đã bị cảm lạnh từ rất lâu, chứ không phải các cơ phận bị hư hại.

– Khi bị cảm lạnh, phần nào trong cơ thể yếu thì phần đó thường dễ bị ảnh hưởng.

– Có nhiều người bị cảm lạnh hàng chục năm mà không biết, đi khám hết mọi bác sĩ tại mọi nhà thương nổi tiếng và uống biết bao nhiêu thứ thuốc, mà vẫn không khỏi bệnh. Và các bác sĩ vẫn không biết chính xác là bệnh gì, kể cả các bác sĩ đông y và châm cứu. Đây là các trường hợp bị đau nhức (số 5) và người mất sắc, bần thần, kiệt sức (số 15) và trẻ em (số 16).

 III. Cách chữa : Có nhiều cách chữa:

 1. Bình thường có thể cạo gió.  

       1) Cách cạo:  

– Dùng đồng bạc hay tốt nhất là cái thìa lớn (nếu bằng bạc nguyên chất càng tốt) cạo gió bằng dầu nóng (bất cứ loại nào cũng được) nhưng tốt nhất là long não pha với dầu ô liu, đặc biệt là dầu dừa. Cạo gió với dầu dừa vừa đơn sơ vừa dễ dàng và công hiệu.

– Tỳ mạnh đồng bạc sát xuống da,

– Cạo chậm rãi và kéo đường càng dài càng tốt,

– Như thế sẽ ít đau và không trầy da.

       2) Chỗ cạo: khắp nơi trên người

– Cạo: cổ, gáy, trán, trên đầu, hai thái dương, bả vai, bên trong bên ngoài hai cánh tay, mu bàn tay, ngón tay, lưng, ngực, bụng, bụng dưới, mông, bên trong bên ngoài đùi, chân, bắp vế và mu bàn chân, ngón chân.

        3) Cạo gió rất khoa học nhưng ông bà cha mẹ chúng ta không giải thích nên mình không hiểu . Thật ra:

– cạo gió là đả thông kinh mạch để cho khí huyết lưu thông đều đặn trở lại

– tái lập thế quân bình cho cơ thể

– dầu nóng tăng khí dương,

– đồng bạc hay cái thìa, tức chất kim khí, rút khí âm trong người ra.

Cạo gió xong là tự nhiên hết các triệu chứng kể trên và khỏi bệnh, thường là ngay tức khắc.

– Chỉ khi bị cảm (cảm nắng cũng như cảm gió và cảm lạnh) cạo da mới đỏ hay có hột và bầm tím nếu bị cảm nặng từ lâu. Càng bị cảm lâu càng bầm. Nhưng chỉ vài hôm sau là các vết đỏ và bầm sẽ biến đi.

Vì thế nói cạo gió vỡ mạch máu da là không đúng . Ngày nay nhiều bác sĩ Mỹ cũng bắt đầu tin, vì người ta đã cạo ngay trước mặt cho bác sĩ thấy.

– Tuy nhiên vì sống tại Tây Âu có nhiều người không quen hay chưa cạo gió bao giờ, nên sợ đau hay sợ bị dị nghị, mà quên đi hay khinh thường cách chữa bệnh rất hữu hiệu này của ông bà cha mẹ.

       4) Cách pha long não với dầu ô liu:

– 100 gr bột long não nguyên chất đã tán sẵn mua ở tiệm thuốc bắc (không phải long não bỏ quần áo hay giết gián)

– pha với 1 lít dầu ô liu (dầu trộn sà lát loại nào cũng đựợc)

– bình thường các tiệm thuốc bắc bán bịch 1 pound long não (10 US$), thì pha với 1 galon dầu ôliu, rồi chia nhau.

– Dầu ô liu pha với long não còn có thể dùng để thoa bóp, chữa trặc hay sưng chân tay và thấp khớp rất công hiệu.

 2. Xông với nước lá

– nấu một nồi nước lớn với lá sả, lá cây dầu huynh diệp, lá chanh, lá cam, lá quít, lá bưởi hay ngải cứu vv…

– trước khi trùm chăn xông trong phòng kín gió, thì bỏ thêm 10-20 gr bột long não, nếu có (thường tiệm thuốc bắc có bán bịch lá xông có thêm gói bột long não nhỏ) – xông xong, lau mồ hôi khô, và mặc quần áo ấm ngay rồi uống vài viên thuốc cảm với nước trà gừng nóng, đắp chăn nằm nghỉ hay ngủ được một giấc, sẽ thấy người khỏe ngay.

Vì khi xông chảy mồ hôi nhiều nên cơ thể mất nhiều muối đạm, do đó cần phải cẩn thận, kiêng ra ngoài, để đừng bị lạnh trở lại.

 3. Đánh cảm bằng cám rang  

– lấy cám bỏ vào chảo rang nóng lên

– bỏ vào miếng vải túm lại

– rồi vuốt từ trên đỉnh đầu vuống xuống

– vuốt khắp nơi trong người: đầu tóc, mặt, ngực, bụng, cơ quan sinh dục, lưng, mông, đàng trước đàng sau tay chân, lòng bàn tay bàn chân và ngón tay ngón chân…

Cảm nặng thì phải rang 2, 3 mẻ và vuốt vài lần sẽ đỡ ngay, vì mọi kinh mạch đều được đả thông và khí huyết di chuyển bình thường trở lại.

 4. Đánh cảm bằng gừng  

– 100 gr gừng giã dập

– túm vào một chiếc khăn hay vải mỏng

– nhúng vào một bát rượu mạnh (rượu đế, volka vv…)

– vuốt từ đỉnh đầu xuống cả người phía trước: mặt mũi, ngực, bả vai, cánh tay bên trong bên ngoài, lòng và mu bàn tay, rồi các ngón tay, bụng, bắp vế xuống cho tới lòng và mu bàn chân và các ngón chân, phía sau: đầu, ót, gáy, lưng, mông xuống cho tới lòng bàn chân và các ngón chân.

 5. Đánh cảm bằng trứng gà và đồng bạc nguyên chất (pure silver coin)  hay các đồng tiền có pha bạc

– luộc 5-7 trứng gà chín lên (18 phút thì trứng chín), luôn để nước sôi

– bóc vỏ, bổ đôi, bỏ lòng đỏ

– nhét đồng bạc nguyên chất vào giữa

– túm vào khăn hơi dầy một chút để khỏi bị xước da

– rồi cứ thế vuốt từ trên đỉnh đầu xuống y như đánh cảm bằng cám và gừng

– vuốt cho tới khi nào trứng hoàn toàn nguội mới thay trứng và thay đồng bạc khác.

       Nếu bị cảm nắng, thì đồng bạc mầu đồng.

      Nếu bị cảm lạnh, thì đồng bạc mầu đen, càng cảm lạnh nặng càng đen.

      Nếu bị cảm gió nữa thì đồng bạc mầu đen nhánh có sắc xanh. Nếu vừa cảm nắng vừa cảm lạnh, thì đồng bạc có cả hai mầu.  

      1) Tùy trường hợp nặng nhẹ, có thể đánh từ 4 trứng trở lên. Bình thường mỗi lần đánh khoảng 4-5 trái là được. Để tránh bị lạnh trở có thể đánh đầu, ngực và lưng trước, rồi mặc áo, che khăn hay đắp chăn, sau đó mới đánh tới phần dưới của cơ thể. Nếu muốn đánh một lần cho cả phía trước hay phía sau, thì lấy chăn đắp phần thân thể đã đánh rồi hay chưa đánh.

2) Đặc biệt là trường hợp 5 và nhất là 15, có khi phải đánh tới 40-50 hay hàng trăm cái trứng. Nghĩa là đánh làm nhiều lần, cho tới khi nào cảm thấy người dễ chịu, khỏe khoắn, da dẻ hồng hào trở lại thì thôi.

3) Trẻ em bị cảm (đặc biêt các em nhỏ) chỉ nên đánh cảm bằng trứng. Trường hợp các em được vài tháng, nếu sợ bỏng da, có thể đánh cảm bên ngoài áo cũng được. Nhưng nếu bọc trứng trong một khăn dầy vừa đủ sẽ không sao.

     4) Cũng có thể để nguyên vỏ trứng, để có nhiều sức nóng hơn, nhưng phải dùng loại khăn rửa mặt hơi dầy, để khỏi bị vỏ trứng làm xước da.

      5) Đánh cảm bằng trứng hơi tanh. Nhưng sau đó không được tắm. Chỉ nên dùng lotion hay chút dầu thơm pha chút nước nóng, nhúng khăn lau sơ người thôi.

      6) Đặc biệt trường hợp số 15 và khi bị thương hàn, tức cảm lạnh ngấm tới xương, thì phải đánh cảm bằng trứng và đồng bạc (vì cạo gió, bấm huyệt thoa bóp chỉ bớt chứ không khỏi).

      7) Đồng bạc bị đen bỏ vào một cái chén bên dưới lót một miếng giấy bạc rồi đổ nước sôi lên, đồng bạc sẽ trắng trở lại ngay và dùng để đánh tiếp. 

 Cách mua hay đặt đồng bạc đánh cảm:  

  1) Ai có thân nhân nhân ở Việt Nam có thể nhờ họ đặt cho mươi đồng bạc đánh cảm tại các tiệm bán vàng bạc (mỗi đồng khoảng 20 US$ làm hình bầu dục theo hình trái trứng là tiện nhất, vừa dùng để đánh cảm vừa dùng để cạo gió rất tốt)

  2) Dễ nhất là vào Internet để mua và trả qua credit card ngay tại Mỹ. Họ sẽ gửi tới tận nhà. Mấy gia đình chung nhau, vì mỗi sét có 20 đồng 1 dollar lớn và dầy. Đồng 1 dollar lớn này có thể đánh được 2-3 trứng mới đen hết đồng bạc.

Silver Rounds Medaillon ** 999 Pure Silver One Ounce 31-34.00 US$

htttp://www.goldmastersusa.com/silver coins.asp

6. Giác, lẩy (thường phức tạp hơn, vì cần có bộ đồ nghề và không công hiệu bằng các cách kể trên, vì chỉ hạn chế vào một số nơi có bắp thịt).

– Giác bằng alcool hay rượu mạnh, nếu không khéo có thể bị bỏng da.

– Giác bằng hơi tránh được nguy hiểm này, nhưng phải có bộ đồ nghề.

– Nếu biết lẩy có thể nặn máu bầm ra, nhưng phải cẩn thận để không bị nhiễm trùng.

 IV. Phòng bệnh hơn chữa bệnh  

Vì cảm lạnh có thể gây ra các hệ lụy nguy hại tới các cơ phận trong người như thế nên chúng ta phải cẩn thận.

1. Luôn mặc ấm áp khi đi làm hay đi lễ ban sáng và về nhà lúc chiếu tối

2. Đầu đội mũ, trùm khăn

3. Giữ hai vai, vùng thận và chân ấm (đi vớ, cả khi ở trong nhà)

4. Khi có các triệu chứng kể trên, cứ áp dụng mấy cách chữa bệnh trên đây  của ông bà cha mẹ, trước khi đi khám bác sĩ.

Trong các năm qua tôi đã từng chữa bệnh cho hằng trăm người và đoán bệnh ít khi sai. Thí dụ một người bị tiêu chảy suốt 3 năm đi khám bác sĩ tại nhiều nhà thương khác nhau và uống bao nhiêu thuốc nhưng không khỏi. Các bác sĩ không tìm ra lý do. Sau khi cạo gió bụng, lưng và ngực, bệnh tiêu chảy dứt ngay. Một người khác ăn lương tàn tật 2 năm vì không thể giơ hai tay lên được và đau nhức không thể lái xe được. Đi khám tại nhiều nhà thương nhưng các bác sĩ không biết bệnh gì, chỉ cho uống thuốc giảm đau và đoán là thần kinh bị hư nên đề nghị mổ. Sau khi cạo gió hai cánh tay và lưng xong là hết đau nhức và hai tay cử động bình thường ngay lập tức. Một người khác nữa bị đau đầu gối 3 tháng, đi khám các bác sĩ, chiếu điện nhiều lần cũng như uống nhiều thứ thuốc, mà không hết đau nhức. Bác sĩ nói thần kinh bị hư, phải mổ. Cạo gió mấy phút là hết đau nhức ngay.

Thế mới biết rất nhiều trường hợp đau nhức là do cảm lạnh. Vì vậy trước khi đi bác sĩ hay vào nhà thương, chúng ta nên áp dụng cách chữa bệnh của ông bà cha mẹ, vừa dễ dàng, vừa rẻ tiền lại rất khoa học và công hiệu tức khắc, giúp giữ gìn sức khỏe và nhất là khỏi bị tàn tật oan.

Roma 9-1-2011

LM Giuse Hoàng Minh Thắng Roma

 https://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/12/DISCLAIMER.jpg

by Tháng Tám 11, 2012 7 comments Tài liệu TKNăng